Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018

Đoàn kết, lời căn dặn thiết tha của Bác
6:18' 11/3/2018
Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngoài cùng bên trái) với các đại biểu về dự Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ I, ngày 3-12-1945.

Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc và xây dưng khối đại đoàn kết toàn dân có giá trị lí luận và thực tiễn hết sức quan trọng. Bác khẳng định trong Di chúc: Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kì quý báu của Đảng và nhân dân ta. Bác căn dặn: Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Theo Bác, đoàn kết không có nghĩa là xuôi chiều, dễ người dễ ta. Để trong Đảng đoàn kết, trở thành một khối thống nhất phải thật sự nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình, và phải chỉnh đốn lại Đảng. Bác coi đó là nhiệm vụ tất yếu thường xuyên, là sự vận động của Đảng trong quá trình phát triển của cách mạng. Khi cách mạng khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng ý chí kiên định, thái độ bình tĩnh, tránh tình trạng dao động, bi quan. Khi cách mạng thắng lợi, chỉnh đốn Đảng để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự mãn. Khi Đảng cầm quyền, chỉnh đốn Đảng để tránh sa ngã, thoái hoá biến chất, tự đánh mất mình. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Coi trọng chỉnh đốn Đảng là tạo nên sức mạnh đoàn kết theo lời dặn của Bác: Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để cũng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta xác định: Đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, mà hạt nhân là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta. Những năm qua, nhờ đoàn kết, công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế, văn hoá, xã hội. Đất nước giữ vững ổn định chính trị, trật tự an ninh được bảo đảm, đời sống nhân dân được cải thiện. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công, các hoạt động nhân đạo, từ thiện thu hút sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.
Mong muốn cuối cùng của Bác trước lúc đi xa là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Chúng ta đang thực hiện mong muốn của Người trên cơ sở tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công.

Thứ Ba, 13 tháng 3, 2018

Đừng cố gắng “quản lý” các cảm xúc của bạn: hãy chung sống (tốt hơn) với chúng!

Chẳng có gì để làm: tất cả chúng ta đều là những con người (có/với) cảm xúc. Sợ, giận dữ, buồn, đau khổ, niềm vui, chúng đi theo ta suốt cả cuộc đời. Và thế thì càng tốt!
Các cảm xúc cho phép ta phản ứng lại các tình huống mà đặt ta vào vòng nguy hiểm, đe dọa chúng ta, mang đến cho chúng ta nỗi buồn lo, hoặc ngược lại, mang lại cho chúng ta vui sướng. Cảm xúc được coi là thứ “đi theo con người từ buổi bình minh của nhân loại”.
Chỉ là: đôi khi, chúng ta hoàn toàn bị tràn bờ với sự thái quá của khí sắc và chúng ta không biết làm thế nào đứng vững trên đôi chân của mình. Trong cuốn sách Cảm xúc: khi mà nó mạnh hơn cả tôi, Catherine Aimelet-Périssol, bác sĩ, nhà trị liệu bằng các liệu pháp tâm lý, và con gái của bà, Aurore Aimelet, nhà báo, đã dùng tới hình ảnh cơn dông trên cánh đồng lúa mì để giúp ta hiểu điều gì diễn ra khi quá tải cảm xúc. Bị ngập chìm, những cây lúa mì ngất ngư trước những đợt nước trút xuống. Nhưng khi cơn mưa qua đi, những cây lúa mì lại đứng thẳng lại được và lấy lại được tư thế của nó. Vấn đề là, thay vì để cơn dông đi qua, chúng ta có xu hướng diễn giải, thậm chí phiên giải thái quá, và hậu quả là, chúng ta bị chết dí với những cảm xúc đó (và đương nhiên là ảnh hưởng cả những người xung quanh). Và mong muốn của chúng ta là có thể “kiểm soát” mọi thứ, làm chủ tất cả, cái mong muốn ấy đã không giúp đỡ chúng ta. Ngược lại, mong muốn quản lý mọi thứ khiến chúng ta cứng nhắc, chống lại chúng ta, không giải quyết bất kỳ khó khăn nào của chúng ta, và đôi khi, còn thêm vào cảm xúc của chúng ta những căng thẳng nữa.
Để ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này, 2 tác giả của cuốn sách trên đã đề xuất những con đường luân phiên sau:
  • Hiểu rằng cảm xúc không phải là vấn đề. Nó đến khi não của chúng ta ghi lại các phản ứng của chúng ta với một tình huống giống như là duy nhất. Từ đó, chúng ta lặp lại các cảm xúc đó mà không có ý thức, hoặc không hiểu rõ lắm về điều đó.
  • Chậm lại mỗi khi đối diện với cảm xúc xâm chiếm chúng ta (2 phút ngừng lại kèm với hít thở sâu), điều đó giúp chúng ta phản ứng khác đi, mà không vay mượn lại các con đường thói quen. Ví dụ: khi chúng ta bùng nổ cơn giận dữ, nếu chúng ta dành thời gian để quan sát chính mình, rất thường chúng ta sẽ nhận ra rằng lý do thực sự của cơn giận lại không nằm trong sự kiện đang diễn ra. Tương tự, khi ai đó đến trễ và khiến chúng ta giận, điều đó thực ra có thể là chúng ta bị gọi lại một trải nghiệm nào đó ở tuổi thơ.
  • Tìm kiếm mối liên hệ (ngay lập tức, và sau đó), điều này trao cho chúng ta khả năng tìm ra mối liên quan giữa cú sốc đầu tiên (khởi thủy) và quá trình hình thành sự vận hành tư duy. Ví dụ: cách mà chúng ta phiên giải thái quá một tình huống (“anh ấy đã không gọi cho tôi, mối quan hệ này không quan trọng với anh ấy, anh ấy sẽ rời bỏ tôi…”, trong khi, người yêu của cô gái chỉ đơn giản là có một công việc đột xuất hoặc hết pin điện thoại…). “Những suy nghĩ của chúng ta phản chiếu lại một cách phóng đại hoặc méo mó những trải nghiệm cũ của mình”, 2 tác giả viết. Bằng cách bám vào bối cảnh, chúng ta sẽ vượt qua được các niềm tin và các phản ứng có tính phản xạ.
Catherine Aimelet-Périssol và Aurore Aimelet khuyên chúng ta nên kiên nhẫn: những thói quen xấu là không dễ thay đổi, cần nhiều thời gian mới thay đổi được. Nhưng với việc thực hành và sự kiên nhẫn, các cảm xúc xuất hiện sẽ ngừng việc phá hủy cuộc đời bạn!

Hoạt động quản lý vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật

Hoạt động quản lý vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật

    Sự hình thành và phát triển ngành khoa học quản lý hơn một thế kỷ nay đã và đang có những đóng góp to lớn trong sự thành công của các lĩnh vực quản lý xã hội. Bằng con đường nghiên cứu khoa học, người ta đã tìm ra những quy luật vận động của hoạt động quản lý và đưa ra những phương pháp quản lý dựa trên những quy luật đó.

    Việc áp dụng kết quả nghiên cứu của khoa học quản lý vào thực tiễn hoạt động quản lý, lãnh đạo tỏ ra rất có hiệu quả. Khi trình độ sản xuất của xã hội ngày càng phát triển, hoạt động của nhà quản lý càng cần phải tuân theo các quy luật khách quan, biết vận dụng các phương pháp quản lý khoahọc trong nhận thức và trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ quản lý.

Sự hình thành và phát triển ngành khoa học quản lý hơn một thế kỷ nay đã và đang có những đóng góp to lớn

    Nhà quản lv không được đưa ra quyết định quản lý dựa trên ý muốn chủ quan của bản thân mà phải dựa trên những thông tin đầyđủ, chính xác về đối tượng. Thu thập thông tin về đối tượng và đánh giá các thông tin đó là việc làm cần thiết giúp người quản lý có được những quyết định đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế. Để có được nhiều thông tin hữu ích người quản lý phải biết lắng nghe, biết tiếp thu ý kiến của người khác và biết sử dụng các phương pháp khoa học (như phương pháp quan sát có chủ định, phương pháp thống kê toán học, bảng biểu, biểu đồ, phân tích, so sánh, tổng hợp…). Nhà quản lý không để tình cảm hoặc định kiến riêng tư của mình ảnh hưởng đến sự đánh giá thông tin và quyết định quản lý.

    Mặc dù người lãnh đạo quản lý phải tuân thủ các nguyên tắc và phương pháp khoa học trong hoạt động lãnh đạo quản lý nhưng không có nghĩa là làm theo một cách cứng nhắc, máy móc mà phải biết xử lí các tình huống quản lý linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo. Bởi vì, đối tượng của hoạt động lãnh đạo quản lý là con người với những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, và luôn xuất hiện những tình huống Ị đột xuất không thể lường trước được trong hoạt đông của người lãnh đạo quản lý. Vì vậy, nhà quản lý không thể áp dụng các nguyên tắc quản lý đối với mọi đối tượng và mọi hoàn cảnh. Ớ góc độ này, hoạt động quản lý là một nghệ thuật.

Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

Làm thế nào để cảm thấy “đủ” trong cuộc sống

Học cách yêu để mang lại cuộc sống hạnh phúcLiên tục chạy theo và đáp ứng những ham muốn, tham vọng trong cuộc sống, con người dường như đánh mất đi hạnh phúc của mình. “Như thế nào là đủ?” là một câu hỏi khó có được câu trả lời chính xác.

“Tôi đã đủ hạnh phúc chưa?” hoặc có thể rút gọn thành “Tôi đã cảm thấy đủ với cuộc sống hiện tại chưa?”. 
Cân đo đong đếm cảm xúc giống như việc xác định trọng lượng của đại dương hay liệt kê những thứ trên đời mà loài mèo ghét bỏ vậy. Đơn giản đây là chuyện không thể.
Vẫn câu hỏi đó “Bao nhiêu là đủ?”.
Có lẽ các nhà tiếp thị đã nhìn ra được sự tuyệt vọng trong câu hỏi khó tìm được câu trả lời này. Thế nên, họ đã lồng vào những mẩu quảng cáo lời hứa hẹn “Chỉ cần bạn có…, là đủ…”.
“Chỉ cần uống thuốc giảm cân Slimfat là đủ để bạn sở hữu thân hình cân đối”.
“Chỉ cần sử dụng xe Jeep là đủ cho một chuyến khám phá”.
“Chỉ cần mang giày Nike là đủ trở thành vận động viên điền kinh”.
“Chỉ cần tham gia vào công ty môi giới Scottrade là đủ để trở nên giàu có”.
Cùng ý nghĩa có thể được diễn đạt bằng nhiều hình thức. Chỉ cần điền tên thương hiệu vào chỗ trống thứ nhất và mong muốn sâu sắc nhất của khách hàng vào chỗ trống thứ hai và nó sẽ ngay lập tức trở thành một chiến lược kinh doanh. Càng thành công nếu như các nhãn hàng đã có đối tượng kinh doanh cụ thể.
Nhưng suy nghĩ này sẽ trở nên sai lệch nếu đặt vào một mối quan hệ cụ thể. “Người ấy sẽ làm tôi đủ”, điều này rất nguy hiểm.
Chẳng có ai hoặc thứ gì có thể lấp đầy khoảng trống vô hạn của con người. Khi con người biết “đủ” với những điều này, cuộc sống ắt sẽ vui vẻ.

ĐỦ HẠNH PHÚC

“Mỗi ngày là một ngày mới”.
(Nguồn: Josh Felise)
Con người thường có khuynh hướng kéo dài nỗi buồn của ngày hôm qua, nhưng điều này lại chỉ khiến cho bạn bỏ lỡ những điều tuyệt vời của ngày hôm nay. Ngày hôm nay là duy nhất, những thứ mới mẻ cũng sẽ đến. Bạn nên học cách bỏ qua những thất bại trong quá khứ, nhìn về tương lai với đôi mắt tích cực hơn.

ĐỦ TẬP TRUNG

“Bạn cần đứng vững vì ít nhất một điều gì đó, nếu không bạn sẽ gục ngã bởi bất cứ điều gì”.
(Nguồn: Stefan Cosma)
Quá nhiều điều muốn làm, quá nhiều thứ muốn có cũng khiến bạn cảm thấy chẳng bao giờ là “đủ”. Thay vì để quá nhiều thứ làm dàn trải tâm trí của bạn, hãy giới hạn và tập trung vào những thứ bạn thích nhất, giỏi nhất.

ĐỦ CĂNG THẲNG

“Mệt mỏi là chiếc gối êm nhất”.
(Nguồn: Josefa nDiaz)
Nghe thì có vẻ vô lý, vì sao lại phải đủ căng thẳng? Trên thực tế, nếu ở trong môi trường thoải mái, con người thường có xu hướng thả lỏng bản thân nhiều hơn. Những lúc căng thẳng, bị “dồn ép” với một mức độ vừa phải, có thể kích thích con người làm việc, tư duy, sáng tạo, thậm chí là vượt qua cả giới hạn bản thân. Kiểm soát sự căng thẳng ở mức độ vừa phải là cách để cuộc sống luôn “chạy”, luôn mới mẻ và luôn có tính thử thách.

ĐỦ NGÂY THƠ

“Khôn ngoan để sống với người nhưng phải đủ ngây thơ thì mới tận hưởng phần nào hạnh phúc ở đời”.
(Nguồn: Robert Collins)
Thỉnh thoảng, bạn cần học cách nhắm mắt trước cuộc đời. Điều này không hẳn là trốn tránh, chỉ là để bạn có một ít thời gian để cân bằng lại suy nghĩ, tâm trạng. Hãy thử tưởng tượng, mỗi ngày bạn đều đọc thấy những tin tức như tai nạn hay chiến tranh, liệu bạn có cảm thấy cuộc sống quá mệt mỏi không. Học cách làm ngơ những điều không quá quan trọng, bạn sẽ thấy cuộc sống dễ thở hơn nhiều.
ĐỦ SỨC KHỎE
“Người ta không coi trọng sức khỏe cho tới khi đau yếu”.
(Nguồn: Curtis MacNewton)
Điều này là điều quan trọng nhất. Làm sao bạn có thể sống hạnh phúc khi mỗi ngày bạn đều phải đối diện với thuốc men và bệnh tật? Ăn nhiều rau xanh, ngủ đủ giấc, nói không với thuốc lá, rượu bia, tập thể dục thường xuyên… là những cách để bảo vệ sức khỏe.

ĐỦ NHÀM CHÁN

“Không làm gì là trạng thái bảo vệ bản thân, khoan dung với chính mình để tự thân trải nghiệm cảm giác chờ đợi một cái gì đó dù không rõ đó là gì”.
(Nguồn: Thong Vo)
Trong cuộc sống hiện đại, nhàm chán có vẻ như đại diện cho sự thất bại, lười biếng, tuy nhiên, vẫn cần một chút buồn chán để cuộc sống thêm trọn vẹn. Có những lúc con người nên dừng lại để tìm hiểu bản thích thích gì, cần gì và muốn gì. Như cách nhà phát minh Archimedes phát hiện ra nguyên lý Archimedes trong lúc đang tắm, những ý tưởng tuyệt vời nhất có thể ra đời lúc con người ta thoải mái nhất.

ĐỦ YÊU THƯƠNG

“Nơi nào có tình yêu, nơi đó có cuộc sống”.
(Nguồn: Aaron Burden)
Yêu và được yêu là chìa khóa cuối cùng để mở cánh cửa hạnh phúc. Yêu thương là liều thuốc hàn gắn, chữa lành hiệu quả hơn bất cứ điều gì. Nếu mỗi ngày bạn đều có thể sống trong tình yêu thương, bạn sẽ là người hạnh phúc.
Cuộc sống thường được ví von như nồi súp vậy. Nếu được nêm nếm đầy đủ, vừa phải tất cả các gia vị thì cuộc sống sẽ hạnh phúc đủ đầy. Chỉ cần nêm nếm “quá tay” loại gia vị nào cũng khiến nồi súp mất vị ngon, cuộc sống cũng mất đi ý nghĩa.

Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

Đó là dân vận
7:11' 22/1/2018

Ngay trong những ngày đầu năm 2018 có một số sự kiện quan trọng, gây sự chú ý của người dân. Thứ nhất, Ban Dân vận Trung ương tổng kết công tác năm 2017 lấy năm 2018 là “Năm Dân vận chính quyền”. Cũng trong tuần đầu năm 2018, tại hai đầu đất nước là TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, hai phiên tòa được mở ra xét xử hơn 60 bị cáo phạm tội “Cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng". Đồng thời, tại một số trạm thu phí BOT ở nhiều nơi...vẫn tiếp tục xảy ra căng thẳng giữa người dân quanh khu vực và một số lái xe với ban quản lý thu phí của trạm.
Có vẻ các sự kiện, vụ việc nói trên không liên quan tới công tác dân vận, nhưng thực chất chúng có liên quan. Tại Hội nghị dân vận toàn quốc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu, trong đó nhấn mạnh: “Các cơ quan Nhà nước, các cán bộ, công chức phải lăn lộn cùng các cán bộ dân vận, nắm dân, nắm cơ sở, chống nguy cơ rất lớn là bệnh quan liêu, bệnh xa dân”; “Bởi vì yêu cầu bức thiết này có ý nghĩa không chỉ trước mắt mà còn ý nghĩa chiến lược lâu dài. Mất dân là mất tất cả”; “Không ít cán bộ không sát dân, xa dân, nhũng nhiễu, tiêu cực, mất uy tín với nhân dân. Đừng chủ quan là dân không biết các hoạt động của chúng ta, các hành vi cụ thể của chúng ta”; “Như vậy, có chuyển biến trong “Năm dân vận chính quyền” hay không sẽ được đo bằng những việc cụ thể, thiết thực nhằm phục vụ nhân dân, chăm lo cho nhân dân chứ không phải chỉ bằng những vận động chung chung”. Điều này cũng có nghĩa là, việc đưa ra xét xử một số vụ án kinh tế lớn ngay đầu năm mới và trước đó, những vụ án đưa ra xét xử trong năm 2017 là hậu quả của việc quan liêu, suy thoái về đạo đức, lối sống, thiếu trách nhiệm gây tổn hại rất lớn về kinh tế, có vụ tới hàng nghìn tỷ đồng, làm ảnh hưởng đến niềm tin của quần chúng, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Việc quần chúng, nhân dân, một số lái xe bức xúc, đấu tranh, thậm chí nổi giận, khi phải trả phí quá cao, đặt sai vị trí trạm cũng như khoảng cách giữa các trạm thu phí không theo quy định. Một nguyên nhân nữa rất quan trọng khiến người dân bức xúc là trước khi xây dựng, nâng cấp đường BOT, người dân địa phương, cơ sở nơi có đường đi qua không được biết, không được bàn về vấn đề này. Một số nơi lý giải rằng đã thống nhất với hội đồng nhân dân tỉnh, nhưng như thế là chưa đúng, chưa đủ theo quy định trong Quy chế dân chủ ở cơ sở. Làm rõ đúng sai khi người dân và nhiều lái xe bức xúc, phản ứng trước các trạm thu phí BOT trong thời gian tới sẽ cần được làm rõ, rút kinh nghiệm. Làm cho người dân bức xúc, phản ứng trong một thời gian dài ở nhiều trạm thu phí BOT thời gian qua rõ ràng có trách nhiệm của Bộ Giao thông-Vận tải, các cấp chính quyền nơi có đường đi qua và của các doanh nghiệp xây dựng các tuyến đường BOT. Nếu cứ để “việc đã rồi” tức là sau khi người phản ứng, nổi giận rồi mới đối thoại, làm công tác dân vận thì là “hạ sách”. Đúng như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã nói trong Hội nghị dân vận vừa qua: “Phải lo công tác dân vận từ xa, từ sớm, chứ không phải đợi đến lúc cháy nhà chết người. Mỗi cán bộ, công chức phải có trách nhiệm nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
Trong cuộc họp cuối năm 2017 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban đã chỉ đạo các cơ quan chức năng đưa ra xét xử một số vụ án lớn ngay trong những ngày đầu năm 2018. Điều này, một lần nữa thể hiện quyết tâm của Đảng ta trong công tác phòng, chống tham nhũng, không có “vùng cấm” và không phải chỉ “tắm từ vai trở xuống”. Việc đưa ra xét xử nhiều đại án kinh tế, với hành loạt cán bộ, đảng viên phải ra hầu toàn, đồng thời, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xử lý, kiến nghị xử lý một loạt cán bộ lãnh đạo quản lý, nguyên cán bộ lãnh đạo quản lý một số bộ, ngành, địa phương liên quan đến sai phạm trong lãnh đạo, điều hành, bổ nhiệm, luân chuyển, cất nhắc không đúng một số cán bộ mà dư luận đã phản ứng đã làm cho niềm tin của nhân dân đối với Đảng tăng lên. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân hiện nay, công tác dân vận chủ yếu đặt nhiệm vụ trọng tâm vào các cấp chính quyền và các cơ quan nhà nước. Bởi vì, đây là những chủ thể nắm trong tay toàn bộ nền kinh tế, ngân sách, chế độ phục vụ, các chính sách kinh tế-xã hội cũng như các chế độ dịch vụ công, phúc lợi xã hội.
Từ kết quả thành tích kinh tế-xã hội trong năm qua, cũng như những vụ việc bức xúc, nổi cộm của quần chúng nhân dân và quyết tâm xử lý không ít cán bộ, đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ngay trong những ngày đầu năm 2018, có thể rút ra 2 yếu tố rất quan trọng để dân vận chính quyền thành công: sự nêu gương của cán bộ công chức và có chính sách kinh tế-xã hội đúng đắn, hợp lòng dân. Bác Hồ đã từng nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”; “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Đó là dân vận! 
Vũ Lân

Thứ Hai, 8 tháng 1, 2018

Ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái của các thế lực thù địch theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng

(Thứ tư, 18/01/2017 - 21:21)
 
Những năm qua, các thế lực phản động, thù địch ra sức chống phá Đảng, Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Bằng những thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm và luận điệu sai trái, thù địch, chúng tập trung tuyên truyền, xuyên tạc bản chất của chế độ ta; bôi nhọ, làm mất uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; hô hào hạ bệ thần tượng của nhân dân Việt Nam; kích động các phần tử bất mãn, thoái hóa biến chất, số cơ hội chính trị điên cuồng chống phá cách mạng Việt Nam. Nhận diện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phương hướng nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: Cần “ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái”.
 
Vậy, vì sao các thế lực phản động, thù địch lại điên cuồng chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, đó là vì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta; là hệ thống lý luận hội đủ tính khoa học và cách mạng, chứng minh sự vận động khách quan của tiến trình lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ sự vận động mang tính quy luật phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... chứng minh tính khoa học, cách mạng của sự vận động đó, khẳng định tương lai của nhân loại là chủ nghĩa cộng sản; chỉ ra con đường đấu tranh giai cấp giành độc lập dân tộc và đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nhà lý luận của giai cấp vô sản sau Mác - Lênin đều thừa nhận công lao to lớn, vĩ đại của C.Mác, Ph.Ănghen và Lênin; tôn vinh các ông là bậc vĩ nhân khi lần đầu tiên trong lịch sử vạch ra hệ tư tưởng của giai cấp vô sản hướng đến giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại thoát khỏi mọi áp bức, bất công, xây dựng một xã hội mới hoàn toàn tốt đẹp. Các học giả, không chỉ các nhà tư tưởng của giai cấp vô sản, mà ngay cả các nhà khoa học, các nhà lý luận hàng đầu của các nước tư bản cũng thừa nhận tính khoa học, cách mạng, tính nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Giắc-Đê-Riđa, một viện sĩ hàng đầu của Pháp đã bày tỏ sự ngưỡng mộ chủ nghĩa Mác - Lênin, trong khi đề cao hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác, về sức lan tỏa, tầm ảnh hưởng lớn và trở thành trục chính của nhân loại trong tương lai, ông cho rằng, chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã thể hiện tính ưu trội ở chỗ, chủ nghĩa đó hướng đến mục tiêu xuyên suốt là cho con người, vì loài người. Trái lại, hệ tư tưởng của giai cấp tư sản không hướng đến mục tiêu vì con người và loài người. Mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa tư bản là lợi nhuận tối đa cho một nhóm người, đó là các công ty xuyên quốc gia, bọn tài phiệt... trong xã hội tư bản. Chẳng hạn, tại Mỹ, một “siêu cường quốc” nhưng lượng tài sản khổng lồ chủ yếu nằm trong tay các nhà tài phiệt và các công ty đa quốc gia.
 
Từ bức tranh đó, chúng ta thấy rõ bản chất bóc lột và đầy bất công của chủ nghĩa tư bản nên nó không thể là đại diện cho tương lai của loài người. Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin, với bản chất cách mạng và khoa học, vì con người, cho con người nên đã trở thành ngọn cờ tiên phong cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đi đến thắng lợi. Tính ưu việt và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại tiến lên xây dựng một xã hội tốt đẹp, văn minh, hạnh phúc, không có người bóc lột người.
 
Tuy vậy, quá trình vận động của lịch sử không thể “bằng phẳng, thênh thang” theo đường thẳng. Trong thập niên 80 và 90 của thế kỷ XX, nhân loại chứng kiến một sự kiện chấn động là sự sụp đổ của Liên Xô và một số nước Đông Âu. Các thế lực thù địch đã nhân cơ hội này không từ thủ đoạn nham hiểm nào tấn công như vũ bão vào hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng cho rằng chủ nghĩa Mác đã “lỗi thời”, không còn mảnh đất để tồn tại nữa, sự thất bại của Liên Xô và các nước Đông Âu là “sự cáo chung” của mô hình chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lênin.
 
Phải thừa nhận rằng, do nhận thức không đầy đủ tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, cho nên quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước đi trước vấp phải nhiều sai lầm, khiến chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đây là một thực tế đau xót, ảnh hưởng lớn đến lòng tin của những lực lượng tiến bộ lựa chọn con đường, lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhưng không thể vì sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội không còn phù hợp mà quy chụp sai lầm của hệ tư tưởng Mác - Lênin. Đây chỉ là sự sụp đổ, thất bại của một mô hình “chủ nghĩa xã hội cổ điển” chứ tuyệt nhiên không phải là sự sụp đổ hệ tư tưởng của học thuyết Mác - Lênin.
 
Trong những thập niên gần đây, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại vẫn kiên định con đường đã lựa chọn, thông qua quá trình cải cách, đổi mới đúng hướng nên đã giành được nhiều thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam là một ví dụ cụ thể. Chúng ta đã kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thấm nhuần tính cách mạng, khoa học, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước, nên đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 30 năm đổi mới.
 
Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn qua quá trình đổi mới, góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, song những năm qua, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, một trong số đó là sự gia tăng chống phá của các thế lực thù địch trên mọi lĩnh vực, bằng những phương thức, thủ đoạn hết sức nham hiểm, tinh vi. Trong đó, chúng đặc biệt chú ý lợi dụng ưu thế của công nghệ thông tin, triệt để khai thác mạng Internet, sử dụng mạng xã hội để chống phá Việt Nam, thúc đẩy xu hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, vào chế độ có mặt bị giảm sút.
 
Trên thực tế, từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, các thế lực thù địch đã tập trung chỉ đạo, tài trợ; tăng cường hệ thống thông tin tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam. Đã có gần 40 đài phát thanh, truyền hình có chương trình tiếng Việt, gần 500 tờ báo, tạp chí, bản tin bằng tiếng Việt xuất bản ở nước ngoài, chĩa mũi nhọn chống phá cách mạng Việt Nam trên nhiều mặt, trong đó có việc chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
 
Trên các trang mạng xã hội, các trang website (một số Blog điển hình như: Dân làm báo, Quan làm báo, Vua làm báo, Chân dung quyền lực...) có máy chủ đặt ở nước ngoài, xuất hiện nhiều nguồn tin xuyên tạc, kích động có chủ đích chống phá  Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nguy hiểm hơn, chúng tập trung vào những vấn đề nhạy cảm để xuyên tạc, kích động, gây áp lực, hòng thay đổi chủ trương, đường lối của Đảng, phủ nhận thành quả cách mạng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được. Có thể thấy, hệ thống báo nói, báo in, báo hình... do các thế lực thù địch tổ chức đã có mặt ở hầu hết các quốc gia có người Việt Nam sinh sống. Phần lớn các đài phát thanh, truyền hình, báo chí bằng tiếng Việt ở các nước đều bị các thế lực thù địch, các đảng phái, các tổ chức phản động lưu vong chi phối, thao túng hoặc lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam.
 
Nội dung tuyên truyền chống phá của các lực lượng này là tập trung chĩa mũi nhọn vào hệ tư tưởng Mác - Lênin. Phủ nhận học thuyết Mác - Lênin, phủ nhận các nguyên lý của chủ nghĩa Mác; bác bỏ lý luận về sự phát triển chủ nghĩa xã hội, bác bỏ lý luận hình thái kinh tế - xã hội, về sự phát triển của các hình thái là quá trình khách quan, tự nhiên; phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư, các vấn đề chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch đã kích động, lôi kéo các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị tăng cường xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ nhằm hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta; phủ định những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, cường điệu những yếu kém, khuyết điểm của nền kinh tế - xã hội và quy chụp đó là do yếu kém trong lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước; kích động nhân dân đòi đa nguyên, đa đảng, gây xáo trộn, rối loạn trong xã hội ta, từ đó lập mưu, tính kế kêu gọi cán bộ, đảng viên, nhân dân từ bỏ hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
 
Một thông lệ quen thuộc của các thế lực thù địch là sau khi tuyên truyền, vu khống, bôi nhọ đối phương, họ lại tung hô, ca ngợi mô hình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cho đó là sự thích ứng “vạn năng”. Tuyên truyền, đề cao con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản, quảng cáo cho khả năng về “con đường thứ 3” phi xã hội chủ nghĩa. Tiến hành tuyên truyền, gieo rắc, nuôi dưỡng các trào lưu tư tưởng cơ hội, xét lại, hữu khuynh. Chúng ra sức tuyên truyền và tìm mọi cách thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang; chúng tìm cách tuyên truyền rằng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là của dân tộc chứ không phải của Đảng; hãy trả lực lượng vũ trang cho nhân dân, rằng lực lượng vũ trang là phục vụ lợi ích của dân tộc, không lệ thuộc vào chính trị của một đảng phái nào. Mục tiêu của chúng là tách lực lượng vũ trang ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng; từng bước “phi chính trị hóa”, làm cho lực lượng này dao động, mất cảnh giác, thờ ơ về chính trị, suy giảm sức chiến đấu, phai nhạt lý tưởng cách mạng và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là ngón đòn nguy hiểm của các thế lực thù địch.
 
Nhận diện âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch trong việc chống phá hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Trong đó nhấn mạnh: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái...”2 đã được Đại hội đề cập và nhấn mạnh.
 
Ngăn chặn, phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, làm tốt nhiệm vụ đó sẽ góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là nhiệm vụ nặng nề, cần phải có sự tham gia của nhiều ban, ngành, cơ quan, đơn vị, tập trung cơ sở vật chất, trí tuệ... kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phản bác những tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch, phản động có hiệu quả.
 
Để đấu tranh ngăn chặn, phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
 
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân hiểu rõ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin là giá trị trường tồn đã được thẩm định, tôi luyện trong tiến trình lịch sử của cách mạng vô sản thế giới và cách mạng Việt Nam. Tính cách mạng, khoa học đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lĩnh hội trong quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và đã được khẳng định bởi tính nhân văn, nhân đạo cao cả. Những điều tốt đẹp đó phải được tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, trong cán bộ, đảng viên, tạo “rào chắn” hữu hiệu để “miễn dịch” các thứ độc hại từ những luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Cái đảm bảo thắng lợi của việc ngăn chặn, phản bác các luận điệu sai trái chính là ở lòng tin của nhân dân, của cán bộ, đảng viên đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đúng đắn do Đảng ta vạch ra. Vì thế, hơn bao giờ hết, bằng mọi cách phải củng cố, hoàn thiện hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác, làm cho uy tín của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng ta được đề cao trong xã hội. Đây chính là yếu tố quan trọng, là cơ sở để ngăn chặn, phản bác có hiệu quả mọi luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.
 
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực thông tin, truyền thông.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo về mặt đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đóng vai trò quyết định trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có thông tin và truyền thông. Tư tưởng, quan điểm được hiện thực hóa thông qua hệ thống các cơ quan làm công tác tư tưởng từ Trung ương đến cơ sở. Trách nhiệm của cơ quan truyền thông phải tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân những thông tin chính xác, khách quan về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phải có định hướng về mặt chính trị, tư tưởng đối với hệ thống thông tin đại chúng, hướng đến bảo vệ những thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới của đất nước. Đồng thời, tuyên truyền, giáo dục quần chúng tinh thần yêu nước, yêu quê hương... biết nhận diện đúng đắn và tích cực tham gia đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
 
Thứ ba, hoàn thiện, nâng cao trình độ của đội ngũ làm công tác tư tưởng, thông tin và truyền thông.
Những người làm công tác tư tưởng, thông tin và truyền thông phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, giác ngộ lý tưởng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và nhân dân, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Đội ngũ này phải được nâng cao trình độ lý luận chính trị, hiểu biết sâu sắc những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ phải được thường xuyên tập huấn nghiệp vụ về thông tin, truyền thông, phải có trình độ ngoại ngữ, trình độ nghiệp vụ, có khả năng phát hiện, vạch trần các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đội ngũ này không những là người biết định hướng cho công chúng phương pháp, cách thức đấu tranh, ứng phó với các luận điệu sai trái, thù địch có hiệu quả, mà chính họ là những người trực tiếp đấu tranh ngăn chặn, phản bác quan điểm sai trái. Vạch trần âm mưu xuyên tạc bản chất chế độ ta, góp phần đánh bại mọi thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta.
 
Thứ tư, hoàn thiện thể chế pháp lý nhằm quản lý hiệu quả công tác thông tin, truyền thông.
Hiện nay, biện pháp quản lý các phương tiện thông tin, truyền thông còn có nhiều bất cập, nhất là đối với các báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, các trang mạng xã hội có máy chủ đặt ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Đây là một thực tế gây không ít khó khăn cho cơ quan chức năng trong xử lý vi phạm. Trong khi đó, hằng ngày, hằng giờ các thế lực thù địch tung lên mạng nhiều thông tin độc hại, tấn công vào nội bộ ta, gây nhiều khó khăn cho ta trong quản lý trên mặt trận văn hóa, tư tưởng. Do đó, hoàn thiện các thể chế pháp lý, ban hành các điều luật, các văn bản dưới luật trong lĩnh vực thông tin, truyền thông là vấn đề có tính cấp thiết hiện nay. Cùng với đó phải tăng cường các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ, nhằm chủ động ngăn chặn các thông tin độc hại tấn công vào Việt Nam. Mặt khác, cần có chính sách hợp lý khuyến khích, tuyển chọn và huy động nhân tài trong lĩnh vực này, cùng với chuyên gia an ninh mạng tham gia thiết lập các “bức tường thép” để ngăn chặn các thông tin xấu, độc hại thâm nhập vào nước ta. Làm tốt những vấn đề trên sẽ góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn, phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
 

Triết lý nhân sinh trong tư tưởng khoan dung tôn giáo của Hồ Chí Minh

(LLCT) - Kế thừa truyền thống khoan dung tôn giáo của dân tộc, Hồ Chí Minh đã phát triển, nâng tầm thành tư tưởng khoan dung tôn giáo mang bản chất nhân văn của người cộng sản. Đây chính là một trong những yếu tố góp phần hình thành triết lý nhân sinh Hồ Chí Minh. Và chính triết lý nhân sinh ấy đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc trong tư tưởng của Người về khoan dung tôn giáo; từ đó góp phần tập hợp, đoàn kết đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Triết lý được thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống, có triết lý nhân sinh, triết lý về vũ trụ, triết lý kinh tế, triết lý đạo đức, triết lý lịch sử...
Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, triết lý nhân sinh được hiểu như sau: Nhân sinh là cuộc sống của con người ta. Nhân sinh quan là lập trường của một người trong việc nhận xét mọi mặt của cuộc sống, nhân sinh quan tức là quan niệm về sự sống con người(1).
Hồ Chí Minh chưa từng viết riêng một tác phẩm, chưa có một bài phát biểu nào trình bày về triết lý nhân sinh của mình. Nhưng, triết lý nhân sinh đó đã được thể hiện sinh động trong cuộc đời đấu tranh cách mạng không mệt mỏi và từ cuộc sống đời thường của Người. Triết lý nhân sinh đó là sự kết tinh cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét: “Cho phép tôi hiểu rằng tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc chắn ở chỗ giải đáp mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ xác định thế giới là thực tại hay là ảo ảnh, khả tri hay bất khả tri, ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng tạo mới lạ, mà chung quy là ở mức quan tâm đến con người, con người thật đang phải sống trên quả đất này và chắc chắn còn sống lâu dài đến vô tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó...”(2).
Như vậy, triết lý nhân sinh Hồ Chí Minh chính là những quan niệm, quan điểm chung của Người trong việc xem xét mọi mặt của cuộc sống, là những quan niệm của Người về cuộc sống, là tâm tư tình cảm, ước mơ, khát vọng, lý tưởng sống của Người.
Tư tưởng khoan dung có từ rất sớm trong lịch sử nhân loại cả ở phương Đông và phương Tây. Nhưng phải đến năm 1995, “Năm quốc tế khoan dung” Liên Hợp quốc mới đưa ra được định nghĩa chính thức về sự khoan dung: “Khoan dung là tôn trọng, thừa nhận và đánh giá tính phong phú và đa dạng của các nền văn hóa trong thế giới chúng ta. Khoan dung là hài hòa trong khác biệt. Nó không chỉ là một nghĩa vụ thuộc lĩnh vực đạo đức mà còn là một sự cần thiết về chính trị và pháp lý”(3). Trong Tuyên ngôn của Ủy ban UNESCO Việt Nam nêu rõ: “Khoan dung là một hình thức tự do, tự do về thiên hướng, về pháp lý. Một con người khoan dung là người làm chủ về tư tưởng và hành động của mình, khoan dung là một thái độ ứng xử tích cực, không hàm nghĩa ban ơn hay hạ mình chiếu cố đối với những người khác. Khoan dung là thừa nhận và chấp nhận sự khác biệt. Đó là học cách nghe, cách thông tin và cách hiểu người khác. Khoan dung là tôn trọng sự đa dạng của nền văn hóa, là sự cởi mở đối với các tư tưởng triết lý khác mình, là sự ham học hỏi, tìm hiểu những bổ ích để làm giàu cho bản thân, không bác bỏ những gì mà mình chưa biết. Khoan dung là tôn trọng quyền tự do của người khác. Khoan dung là thừa nhận không có một nền văn hóa, một quốc gia nào độc tôn về tri thức và chân lý”(4). Như vậy, về bản chất, khoan dung chính là thái độ tôn trọng, cách nhìn rộng lượng đối với những khác biệt giữa các quốc gia, dân tộc (về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, các quan điểm chính trị, triết học đạt đến chiều sâu,...). Nói cách khác, khoan dung là thái độ hài hòa trong khác biệt để cùng nhau tồn tại và phát triển trong hòa bình.
Trên tinh thần tiếp thu, kế thừa truyền thống khoan dung của dân tộc Việt Nam, với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xây dựng, thực thi và nâng cao văn hóa khoan dung lên một trình độ mới - khoan dung cộng sản chủ nghĩa; nhấn mạnh, đề cao các giá trị tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội. Vì thế, khoan dung tôn giáo đã trở thành giá trị chuẩn mực nhân văn, đạo đức của người cộng sản trong quan hệ ứng xử với đồng bào và chức sắc tôn giáo. Trong tư tưởng về khoan dung tôn giáo của Người cũng chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc, với quan niệm, tôn giáo là vấn đề con người và vì con người. Và cũng chính triết lý nhân sinh ấy đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc trong tư tưởng của Người về khoan dung tôn giáo.
Triết lý nhân sinh trong tư tưởng khoan dung tôn giáo của Hồ Chí Minh được thể hiện trong những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, triết lý nhân sinh thể hiện ở sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người. Theo Hồ Chí Minh, tôn trọng tự do tín ngưỡng tức là tôn trọng nhân dân, tôn trọng nhu cầu tâm linh của một bộ phận nhân dân, tôn trọng sự tự do, dân chủ trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Hồ Chí Minh không gò ép hay bắt buộc mọi người phải theo một hệ tư tưởng nào đó, ai cũng có quyền tự do nghiên cứu một chủ nghĩa nào mà mình tin tưởng. Ngày 12-7-1946, trả lời phỏng vấn các nhà báo ở Roaya Mông Xô, Người nêu rõ: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi nghiên cứu chủ nghĩa Mác”(5). Cho nên cũng có thể nói, quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người đó cũng chính là quyền con người được tự do về tư tưởng.
Đối với Hồ Chí Minh, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là tôn trọng một trong những quyền cơ bản của con người, tôn trọng giá trị làm người, chứ không phải đơn thuần là vấn đề chính trị, mang tính chất tình thế. Nó thể hiện cái nhìn rộng lượng đối với những quan điểm khác biệt, ở sự tôn trọng niềm tin của người khác, không áp đặt ý kiến của mình lên người khác, rất xa lạ với mọi thái độ kỳ thị, cuồng tín, giáo điều. Ý nghĩa sâu xa ẩn chứa trong đó chính là triết lý nhân sinh, tầm nhìn và tư tưởng khoan dung, nhân văn sâu sắc của Người đối với tôn giáo. Điều này được nhà sử học Xanhtơni (người không cùng quan điểm với Hồ Chí Minh) khẳng định: “Về phần tôi, phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ để nhận thấy nơi có các chương trình của cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ, của sự công kích, đa nghi hoặc chế giễu đối với tôn giáo nào bất kỳ”(6).
Thứ hai, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao những người sáng lập ra các tôn giáo, các học thuyết chính trị - xã hội cũng như các giá trị tích cực của các học thuyết đó. Người nói:
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa C.Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người... Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”(7).
Hồ Chí Minh luôn tôn trọng những người sáng lập ra các tôn giáo, đánh giá cao những giá trị trong giáo lý của các tôn giáo. Tôn trọng giáo chủ chính là tôn trọng những người theo tôn giáo, tôn trọng giáo lý của các tôn giáo chính là tôn trọng đức tin của họ. Triết lý nhân sinh trong tư tưởng khoan dung tôn giáo của Người đã thể hiện sự hài hòa, chung sống, cùng tồn tại. Mỗi chúng ta có thể có xuất thân, quan điểm, đức tin khác nhau, nhưng quan trọng là phải biết tôn trọng sự khác biệt, thích nghi và cùng tồn tại. Muốn vậy, chúng ta phải tìm ra những mẫu số chung cho sự tồn tại đó. Hồ Chí Minh là người nhận thức sâu sắc nhất mẫu số chung đó, vì thế, trong mỗi tôn giáo, Người đều chỉ ra được những ưu điểm, không chỉ có giá trị với bản thân đức tin của tôn giáo đó, mà lớn hơn cả là đối với cả sự tiến bộ của xã hội loài người. Người viết: “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”(8). Tư tưởng nhân đạo của Giêsu, tư tưởng từ bi hỉ xả, bình đẳng của Phật Thích Ca, tư tưởng “hòa mục xã hội” của Khổng Tử đã gặp gỡ với mục tiêu lý tưởng của CNXH mà chúng ta đang xây dựng. Như vậy, ẩn chứa trong tư tưởng khoan dung tôn giáo của Hồ Chí Minh đó chính triết lý nhân sinh sâu sắc. Theo Người, mặt tích cực của các tôn giáo là đều hướng tới các giá trị cơ bản của con người, giá trị làm người.
Hồ Chí Minh đã đề cao sự tương đồng về mục đích giữa tôn giáo và CNXH. Người nói: “Mục đích Chính phủ ta đeo đuổi là chiến đấu vì nền độc lập và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Song, để đạt tới hạnh phúc đó cho mọi người thì cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu đức Chúa Giêsu sinh ra vào thời đại chúng ta và phải đặt mình trước những nỗi khổ đau của người đương thời, chắc ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi theo con đường cứu khổ loài người”(9).
Triết lý nhân sinh Hồ Chí Minh là triết lý hướng đến mọi con người trong xã hội với những giá trị phổ quát chứ không phải là vì một vài cá nhân hay nhóm người nhất định. Vì vậy, không chỉ tôn trọng các vị giáo chủ, giáo sĩ mà Hồ Chí Minh còn rất quan tâm sâu sắc đến đời sống của đồng bào tín đồ. Người nhắc nhở và chỉ đạo cán bộ ở các cơ sở phải hết sức quan tâm đến đời sống mọi mặt của đồng bào, từ ăn ở đến học hành tiến bộ của họ: Giáo dân không thể chịu đói, chịu rét để đi lễ nhà thờ, do vậy, phải chăm lo cho họ “phần xác” no ấm, “phần hồn” vui vẻ.
Từ việc tiếp cận tôn giáo trên bình diện văn hóa, đạo đức, với triết lý nhân sinh: coi tôn giáo là vấn đề con người và vì con người; đề cao, khai thác các giá trị đạo đức của tôn giáo, Hồ Chí Minh đã thu hút, tập hợp được nhiều giáo sĩ, nhà tu hành và đông đảo giáo dân tham gia kháng chiến và xây dựng đất nước. Đây là cách giải quyết vấn đề tôn giáo trong điều kiện mới rất đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc, với tâm lý, tình cảm của con người Việt Nam.
Bên cạnh việc thừa nhận, tôn trọng và khai thác các giá trị về đạo đức, lý tưởng của tôn giáo, Hồ Chí Minh còn khẳng định tôn giáo là thành tố của văn hóa, là một bộ phận của văn hóa, có đóng góp rất lớn vào việc hình thành nhân cách và đời sống tinh thần của con người. Ngay từ đầu những năm 40 thế kỷ XX. Người đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”(10). Như vậy, tôn giáo là từ cuộc sống mà ra, do con người và vì con người; tôn giáo là một thành tố, một bộ phận của văn hóa, hiện hữu trong đời sống con người. Đây chính là quan điểm duy vật của Hồ Chí Minh nhưng lại không hề có sự mâu thuẫn với các tôn giáo. Bởi, ẩn chứa trong quan điểm đó chính là thái độ tôn trọng tôn giáo và một triết lý nhân sinh sâu sắc, thể hiện tính nhân văn trong tư tưởng và con người Hồ Chí Minh.
Kế thừa triết lý nhân sinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh về khoan dung tôn giáo, trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đặc biệt quan tâm phát huy những giá trị tích cực về văn hóa, đạo đức của các tôn giáo. Nghị quyết Đại hội XII đã khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”(11).
Thứ ba, ứng xử khoan dung, độ lượng với những người vi phạm chính sách tôn giáo. Triết lý nhân sinh trong tư tưởng khoan dung tôn giáo Hồ Chí Minh còn được thể hiện qua thái độ của Người đối với các linh mục, giáo dân lầm đường lạc lối, nghe theo sự dụ dỗ, cưỡng ép của kẻ thù. Người không những không bỏ rơi họ mà còn bày tỏ lòng đau xót về nỗi khổ của họ khi rời bỏ quê hương ra đi, chịu nhiều khổ ải, sẵn sàng mở lòng đón họ trở về. Người viết: “Số phận của những giáo hữu ấy khiến tôi rất đau lòng và chắc đồng bào cũng đủ sức đấu tranh đòi trở về quê cha đất tổ. Nhân dịp này, tôi xin nhắc lại cho đồng bào rõ: Chính phủ ta thật thà tôn trọng tín ngưỡng tự do. Đối với những giáo hữu đã nhầm di cư vào Nam, Chính phủ đã ra lệnh cho địa phương giữ gìn cẩn thận ruộng vườn, tài sản của những đồng bào ấy và sẽ giao trả lại cho những người trở về”(12).
Hồ Chí Minh luôn có lòng tin ở con người, bởi lòng tin đó có cơ sở vững chắc từ triết lý nhân sinh thấm đượm tính nhân văn sâu sắc của Người. Vì thế, Người khẳng định: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài... Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta... Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ”(13). Xuất phát từ niềm tin về bản chất thiện của con người, Hồ Chí Minh đã chủ trương, trong lúc cần tẩy trừ những kẻ bôi nhọ Thiên Chúa, làm tay sai cho đế quốc, phạm tội phản Chúa, phản quốc, hại dân thì cũng phải khoan hồng đối với đồng bào lầm đường lạc lối: “Trừ một bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có lòng yêu nước. Tuy có một số đồng bào lầm lạc, qua một thời gian, những người ấy dần dần giác ngộ và quay trở về với Tổ quốc”(14). Nhờ đó, đã thu hút được đông đảo đồng bào và chức sắc của các tôn giáo vào khối đại đoàn kết chung của dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng Việt Nam.
Triết lý nhân sinh trong tư tưởng khoan dung tôn giáo của Hồ Chí Minh là di sản tư tưởng quý báu để Đảng và Nhà nước ta kế thừa, vận dụng vào thực hiện chính sách tôn giáo và đoàn kết dân tộc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị

(LLCT) - Mỹ và các thế lực thù địch xác định chính trị, tư tưởng là mặt trận hàng đầu, là khâu đột phá của chiến lược “diễn biến hòa bình”.
Mục tiêu chống phá về chính trị là, xóa bỏ ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong các tầng lớp nhân dân; xóa bỏ chủ nghĩa xã hội (CNXH), phủ định chân lý “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”; phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; xây dựng hệ tư tưởng tư sản, lối sống thực dụng trong các thế hệ người Việt Nam. Về tổ chức, tìm cách xâm nhập vào tổ chức đảng và nhà nước để chuyển hóa từ bên trong. Tạo dựng được những tên tay sai làm “ngọn cờ” quy tụ, tập hợp những phần tử chống CNXH ở Việt Nam vào các hoạt động phá hoại hệ thống chính trị (HTCT) ở nước ta hiện nay, khi có điều kiện, thời cơ sẽ lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam bằng cuộc cách mạng “nhung lụa” hoặc bạo loạn lật đổ (BLLĐ). Đó chính là cái đích nhằm đạt tới của hoạt động “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam của Mỹ và các thế lực thù địch.
Mỹ công khai xác định: “đấu tranh ý thức hệ là một cuộc chiến tranh quốc tế”. Trong những năm qua, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này ngày càng mở rộng về quy mô, phát triển về hình thức, tính chất phức tạp, quyết liệt ngày càng tăng, làm cho cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ diễn ra xuyên suốt, len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội. Mỹ và các thế lực thù địch đánh giá: “Đảng Cộng sản Việt Nam đang khủng hoảng về lý luận, không thống nhất đường lối, chính sách”. Chúng kết hợp cả trong và ngoài nước thúc đẩy thực hiện những “chiến dịch” tiến công chống phá về lý luận, đường lối, quan điểm tư tưởng. Trong đó, then chốt là tiến công quyết liệt vào đường lối, Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng ta, nhằm loại bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, đưa quan điểm tư tưởng trái chiều, phản động vào trong Đảng, trong xã hội. Thực hiện âm mưu làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta mất phương hướng, khủng hoảng niềm tin, lý tưởng dẫn đến dao động, chuyển hóa theo chúng.
Để đạt được các mục tiêu trên đây, Mỹ và các thế lực thù địch đã, đang và sẽ tập trung vào những vấn đề cơ bản dưới đây:
1. Phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin - nền tảng tư tưởng của Đảng ta; xuyên tạc, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, những thành tựu của cách mạng và chủ nghĩa xã hội ở nước ta
- Phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta.
Xóa bỏ ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là mục tiêu hàng đầu của Mỹ và các thế lực thù địch, nhằm làm mất phương hướng, giảm sút ý chí chiến đấu, xa rời mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Kẻ thù nhận thức rất rõ rằng, sở dĩ cách mạng Việt Nam vẫn đứng vững và tiếp tục phát triển đi lên bất chấp mọi khó khăn, thử thách khắc nghiệt do chính chúng gây ra là do chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng sâu sắc trong nhiều thế hệ người Việt Nam. Một trong những nguyên nhân làm cho CNXH ở Liên Xô và Đông Âu tan rã nhanh chóng là do kẻ thù của CNXH đã thành công trong việc gạt bỏ ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong các thế hệ sau này. Chính ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô (trước đây) đã từ bỏ những nguyên lý có tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Các thế lực thù địch tập trung mọi cố gắng để chứng minh cho “Tính lỗi thời của học thuyết Mác - Lênin”.  Chúng cho rằng: “hầu hết các nước ngày nay đều bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ còn một vài nước “ngoan cố” như Trung Quốc, Việt Nam là tôn thờ”. Gần đây, chúng tung ra luận điệu: “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay cả Bộ Chính trị”. Bằng thực tế sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, chúng khẳng định: “mô hình đổ, nghĩa là học thuyết đổ. Thực chất chủ nghĩa Mác là một học thuyết hư vô, là sự biện hộ cho một khoa học tàn phá xã hội”. Chúng còn lớn tiếng tuyên bố: “Cách mạng Tháng Mười Nga là sự đẻ non; là sai lầm của lịch sử; CNXH hiện thực là quái thai, là sự phát triển ngoài nền văn minh nhân loại”, v.v. và v.v.. Chúng tuyên truyền vu cáo Đảng ta “đem tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin áp dụng vào Việt Nam là một sự gán ghép, gượng gạo dẫn đến sai lầm”. Chúng phủ định con đường cách mạng của Đảng và nhân dân ta từ năm 1930 đến nay. Chúng cho rằng, công cuộc đổi mới của Việt Nam là trở lại con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN). Chúng phủ nhận khả năng quá độ lên CNXH ở nước ta, vì theo chúng, “Việt Nam mất một điều kiện tiên quyết là sự giúp đỡ quốc tế XHCN”. Những luận điệu đó đã tác động tiêu cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm và lòng tin của một bộ phận không nhỏ trong các tầng lớp nhân dân, gieo rắc sự hoang mang, dao động, giảm lòng tin và sự hoài nghi về CNXH và cuộc cách mạng mà chúng ta đang thực hiện. Những luận điệu này đã mở đường cho những ý tưởng nghi ngờ, bi quan về CNXH của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Phủ định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chúng tập trung phủ định nguyên lý về hình thái kinh tế - xã hội, về học thuyết giá trị thặng dư, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; nguyên lý về vấn đề đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, tập trung dân chủ và phủ định toàn bộ học thuyết này. Chúng tìm các lý lẽ để đổ lỗi cho mọi sai lầm của CNXH là do thực hiện chuyên chính vô sản. Mọi sai lầm của CNXH và cách mạng Việt Nam là do Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra. Xã hội Việt Nam chỉ có thể phát triển nếu như Việt Nam cùng thực hiện việc lật đổ chế độ XHCN như ở Đông Âu và Liên Xô. Để làm việc này, trước hết Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ các nguyên tắc chuyên chính vô sản và nguyên tắc tập trung dân chủ.
Về lực lượng tiến công trên mặt trận chính trị, tư tưởng, chúng tranh thủ, kích động và sử dụng bọn xét lại chống Đảng, bọn cơ hội chính trị trong nội bộ Đảng ta là chủ yếu. Trong đó, chúng chú trọng tranh thủ, kích động, lôi kéo một số cán bộ hưu trí; đặc biệt chú trọng tranh thủ, lôi kéo một số ít cán bộ đã bị mất phương hướng, cơ hội chính trị, kém bản lĩnh, kết hợp với bọn phản động ở trong và ngoài nước.
Đáng chú ý là, trong những năm gần đây, chúng sử dụng nhiều đối tượng tham gia, cả cũ và mới (Nhân văn giai phẩm cũ, bọn xét lại chống Đảng cũ và mới); cả ngoài nước và trong nước; trên nhiều địa bàn (Bắc, Trung, Nam; trọng điểm là ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh). Đặc biệt, chúng đã móc nối, sử dụng lực lượng cơ hội chính trị trong Đảng; trong đó có cán bộ lão thành, có cả cán bộ đương chức, có tướng lĩnh đã nghỉ hưu và thành phần chống đối trong trí thức, văn nghệ sĩ để viết và tán phát tài liệu với luận điệu tự cho mình là cách mạng chân chính, đưa ra quan điểm lừa mị, kích động, rằng: “đội ngũ lãnh đạo hiện nay ở Việt Nam đang đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, do đó, cựu chiến binh và những cán bộ lão thành “trung kiên” phải đấu tranh để ngăn ngừa sự xuất hiện “Goócbachốp” ở Việt Nam”. Qua đó nhằm tập hợp lực lượng chống lại bộ máy lãnh đạo hiện nay của Đảng và Nhà nước ta.
Về hình thức, chúng tăng cường các hoạt động hợp pháp, kết hợp nửa hợp pháp và bất hợp pháp. Trong đó, nguy hiểm nhất là, chúng dùng hình thức hợp pháp, như: thông qua góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng các văn kiện, nghị quyết, Hiến pháp, luật lệ, hội thảo khoa học, gửi thư cho Trung ương và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và yêu cầu lãnh đạo ta phải trả lời, nhằm gián tiếp đối thoại với lãnh đạo cấp cao, vừa nhằm gây chia rẽ, phân hóa nội bộ, vừa gây mất phương hướng, chuyển hóa từ trong Đảng. Sau đó, biên soạn thành tài liệu phát tán rộng rãi ở trong và ngoài nước, công khai hóa quan điểm chống đối.
Về đặc điểm hoạt động, chúng lấy hoạt động “ngầm”, “sâu”, chuyển hóa từ bên trong là chính, kết hợp với những hoạt động gây biến động, bạo loạn chính trị, tăng cường hoạt động “công khai hóa”. Lợi dụng vấn đề “dân chủ hóa”, khai thác những sơ hở, thiếu sót của ta để đấu tranh trực diện, theo hướng “công khai hóa”, “hợp pháp hóa” những hoạt động chống đối. Phối hợp, liên kết giữa trong và ngoài nước mang tính chất “quốc tế hóa”. Chúng xác định “lấy hải ngoại làm hậu phương, quốc nội là tiền tuyến. Giữ vững chiến tuyến chống cộng hải ngoại và ra sức tiến công mãnh liệt vào Việt cộng tại quốc nội”.
Về nội dung, chúng tập trung vào luận điểm dân chủ tư sản, “CNXH dân chủ” dưới những hình thức, màu sắc khác nhau, núp dưới chiêu bài đổi mới, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng và phát triển triết học phương Đông...
- Xuyên tạc, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là, sự thống nhất biện chứng giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Song, chúng cố tình xuyên tạc tư tưởng của Người, chúng cho rằng, tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh là tư tưởng dân tộc, để qua đó chúng xuyên tạc, biến tướng tư tưởng của Người thành tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, tư tưởng dân tộc tư sản. Thực chất là tư tưởng phản động, phản bội của chúng, nhưng nhân danh Bác. Chúng còn cho rằng: “Hồ Chí Minh chỉ là người tiếp thu mù quáng chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không hề có tư tưởng cao siêu. Đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tư do” là phi nhân tính”.
Tình báo Mỹ (CIA) và các thế lực chống đối, thù địch ở bên ngoài đã viết nhiều tài liệu và chỉ đạo, hỗ trợ cho bọn cơ hội chính trị, xét lại viết tài liệu dưới dạng lợi dụng vấn đề dân tộc để xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng đã viết và phát tán những tài liệu với chủ đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng dân tộc, không có ảnh hưởng của tư tưởng Mác - Lênin”. Và, “con đường Bác Hồ đã chọn là con đường dân tộc, không phải CNXH”, “Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện xây dựng CNXH ở Việt Nam là không đi theo con đường mà Bác Hồ đã chọn”.
Mặt khác, chúng chỉ đạo viết những tài liệu xuyên tạc trắng trợn nhằm thực hiện ý đồ “hạ thần tượng Hồ Chí Minh”. Gần đây, chúng viết tài liệu với đầu đề dưới dạng văn học “Cười chóp bu”. Trong đó, chúng đã dựng chuyện, vu cáo bỉ ổi, bôi nhọ Bác, kể cả về đời tư và sự nghiệp lãnh đạo cách mạng. Chúng cho rằng, khi đã lợi dụng được tư tưởng Hồ Chí Minh để chuyển hóa quan điểm lý luận thì sẽ xóa luôn cả vai trò, vị trí lịch sử của Bác, để dựng ngọn cờ mới dưới các chiêu bài chủ nghĩa xã hội dân chủ, CNXH nhân văn, CNXH nhân bản, thực chất là xóa bỏ CNXH khoa học và học thuyết Mác - Lênin.
- Phủ nhận con đường đi lên của cách mạng nước ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chúng hết lời ca ngợi Goócbachốp, công khai đi theo con đường TBCN: “Không nên cứ tôn thờ CNXH một cách lý thuyết suông mà không hòa nhập vào thời đại, đi theo con đường TBCN. Tự giác thì sẽ đến đích nhanh hơn, không tự giác thì tất yếu cũng phải đi theo con đường đó, nhưng đến đích chậm chạp hơn, đau đớn hơn”. Các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền cho mô hình “xã hội dân chủ” và tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện âm mưu xóa bỏ chuyên chính vô sản, xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, phủ nhận đấu tranh giai cấp, gây mơ hồ về địch, ta; đề cao chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân tư sản. Đưa ra quan điểm về con đường “dân tộc” đi lên xây dựng xã hội văn minh do trí thức, sinh viên thanh niên làm nòng cốt; nhằm tác động vào giới trẻ để khuyến khích họ đấu tranh cho “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” và đẩy mạnh chiến tranh tâm lý tác động vào xã hội những khuynh hướng mơ hồ, lệch lạc để lừa bịp quần chúng nhân dân.
2. Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
Đây là một trong những nội dung chính của hoạt động “diễn biến hòa bình”, của hoạt động tuyên truyền phá hoại của kẻ thù trong những năm qua. Mỹ và các thế lực phản động tung ra nhiều luận điệu tuyên truyền nhằm kích động quần chúng loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, như: chúng phê phán Đảng ta không chịu đổi mới về chính trị, “không chịu thực hiện đa nguyên chính trị, giữ độc quyền lãnh đạo, hạn chế dân chủ”. Chúng cho rằng: “độc tài, Đảng trị là cái gốc sai chính của nhà cầm quyền Việt Nam hiện đại”. Và, “Đảng chỉ nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối”. Chúng thống kê, tổng hợp lại toàn bộ những sai lầm, thiếu sót cả về đường lối lẫn chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta trong quá khứ, đặc biệt là ở lĩnh vực kinh tế và quản lý xã hội để chứng minh cho sự “chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng”, gạt Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Chúng khai thác, lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm trong chỉ đạo và thực hiện đường lối, chính sách, những cán bộ, đảng viên tham nhũng, tha hóa, tạo ra sự phân hóa sâu sắc trong Đảng, làm suy yếu sức mạnh đoàn kết trong Đảng và giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Theo quan điểm của các thế lực thù địch, muốn chiến thắng đối phương phải phá vỡ sự gắn bó trong tổ chức Đảng Cộng sản và giữa Đảng với nhân dân. Chúng khuyến khích cải tổ, cải cách, đổi mới triệt để, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để làm suy yếu, đi đến phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Gần đây, chúng tung ra một số luận điệu vu khống, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo cấp cao ở các thời kỳ nhằm đề cao người này, hạ thấp người kia để chia rẽ nội bộ, làm mất lòng tin của đảng viên, cán bộ và nhân dân. Chúng phủ định đường lối, chính sách của Đảng ta, với luận điệu: “kinh tế thị trường sẽ từng bước làm thay đổi bản chất chế độ XHCN còn non trẻ, ốm yếu ở Việt Nam... sẽ tới một ngày Chính phủ Việt Nam chỉ còn là Cộng sản trên danh nghĩa”.
3. Đẩy mạnh hoạt động chống phá về tổ chức nhân sự, tập trung vào lãnh đạo cấp cao chủ chốt; thực hiện chiến lược “đổi màu”, khoét sâu nội bộ; xây dựng lực lượng ngầm và tổ chức đảng phái chính trị chống đối
Cùng với việc đẩy mạnh hoạt động tấn công vào đường lối, quan điểm, Mỹ và các thế lực thù địch chống phá ta quyết liệt về tổ chức nhân sự. Chúng đẩy mạnh hoạt động chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước ta; ra sức kích động gây mất đoàn kết (chia rẽ Bắc - Nam, già - trẻ, cũ - mới, ngành nghề, quân sự - dân sự, kinh tế - chính trị...). Qua đó, thực hiện âm mưu phân hóa, làm suy yếu Đảng và Nhà nước ta; tích cực cài cắm, xây dựng lực lượng trong nội bộ ta với ý đồ chui sâu, leo cao; thậm chí, chúng đã đề ra chủ trương xây dựng “Goócbachốp” trong lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình tiến hành chống phá ta về tổ chức nhân sự, các thế lực thù địch chủ trương vừa đẩy mạnh hoạt động chống phá nội bộ ta, vừa tích cực xây dựng lực lượng ngầm và tổ chức đảng phái chính trị chống đối, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, chuyển hóa, xóa bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mỹ và các thế lực thù địch đánh giá: “Đảng Cộng sản Việt Nam đang trong giai đoạn hẫng hụt về lãnh đạo, nội bộ mất đoàn kết, bị phân hóa. Cán bộ đảng viên suy thoái về đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật kém, các chủ trương của Trung ương đã bị các địa phương triển khai sai lệch, dẫn đến gây rối loạn chính trị, trật tự xã hội”. Chúng ráo riết tuyên truyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam đang khủng hoảng lãnh tụ”, không ai nói được ai. Chúng chủ trương vừa thúc đẩy các hoạt động chống phá ta về tổ chức, nhân sự, rồi tăng cường móc nối, xâm nhập vào nội bộ Đảng với ý đồ “gài bẫy” khống chế, chuyển hóa chế độ từ bên trong, bên trên; làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam “bị đổi màu, biến chất, mất vai trò lãnh đạo”.
Mỹ và các thế lực thù địch chủ trương triển khai đồng bộ để chuyển hóa, “đánh quỵ” một số cán bộ đương chức, cán bộ lão thành trung kiên và lớp cán bộ nguồn kế cận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước hết, tập trung vào những đồng chí lãnh đạo chủ chốt, trung kiên ở cấp cao, chúng gọi là đột phá vào những “boong ke” để làm mất chỗ dựa cho thế hệ lãnh đạo kế tiếp. Đồng thời, tích cực xây dựng lực lượng ngầm, xây dựng ngọn cờ và các tổ chức đảng phái chính trị đối lập. Chủ trương của Mỹ là: “phải tìm cho được những con bài, ngọn cờ để tập hợp lực lượng áp đảo trong các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngọn cờ phải tìm ngay trong hàng ngũ lãnh đạo, những người có tư tưởng ảnh hưởng phương Tây”.
Việc chọn “ngọn cờ” cũng có nhiều loại, như: “ngọn cờ thí điểm”, “ngọn cờ quá độ”, “ngọn cờ chính thức”. “Ngọn cờ thí điểm” được xuất hiện trước để công khai nêu yêu sách, vừa nhằm thu hút dư luận trong và ngoài nước, gây áp lực; vừa để thăm dò phản ứng của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta. “Ngọn cờ chính thức” được ẩn náu kín để xuất hiện “vào phút chót”. Đồng thời với quá trình này, chúng vận động, hỗ trợ để lập những tổ chức trá hình. Loại tổ chức trá hình này khá phức tạp, ta khó phân biệt được đâu là loại do địch chủ mưu lập ra, đâu là loại xuất phát từ nhu cầu thiết thực của quần chúng, đâu là loại vốn là tổ chức tốt nhưng đã bị địch cài cắm, lợi dụng, hiện nay ở Thành phố Hồ Chí Minh có hàng ngàn hội, đoàn, câu lạc bộ mà ta chưa phân loại, kết luận được rõ ràng. Gần đây, một trung tâm CIA tại Mỹ đã đệ trình 4 “phương án” lên Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ về việc hỗ trợ cho lực lượng ở quốc nội ra đời một chính đảng đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng cho rằng, phương án tốt nhất hiện nay là sử dụng bọn cơ hội chính trị, xét lại cũ và mới để hình thành tổ chức chính trị đối lập. Chúng còn chủ trương: “sẽ tiếp tục xây dựng một lực lượng chính trị trung dung tại Việt Nam, kết hợp với việc xây dựng đội ngũ thực sự đã được đào tạo của CIA”. Mỹ xác định “đây mới chính là lực lượng đảm bảo cho việc lật đổ chế độ chính trị ở Việt Nam”.
Nhiều năm nay, chúng nỗ lực xây dựng, nhen nhóm tổ chức chính trị chống đối trong nội địa, nội bộ ta; nhưng đã bị ta phát hiện và kịp thời ngăn chặn có hiệu quả, như, đã làm thất bại ý đồ tái lập “Đảng Dân chủ”, lập “Đảng dân chủ xã hội”, lập “Liên minh dân chủ cấp tiến” ở phía Nam, “Mặt trận dân chủ cấp tiến” ở phía Bắc, Đảng “Dân chủ tự do Thiên Chúa giáo”, Đảng “Dân chủ tự do Phật giáo”, v.v..
Chúng đã và sẽ tiếp tục củng cố, phát triển, sử dụng 4 loại lực lượng: (1) Tình báo gián điệp làm tham mưu, nòng cốt, xung kích tổ chức hoạt động; (2) Lực lượng phản động trong các tôn giáo, dân tộc; (3) Lực lượng ngụy quân, ngụy quyền cũ làm lực lượng hoạt động phá hoại trực tiếp; (4) Nguy hiểm nhất là lực lượng do CIA cấu kết với tình báo nước ngoài khác, sử dụng bọn “hậu chiến”, xét lại, cơ hội chính trị, thoái hóa biến chất trong nội bộ ta, dựng ngọn cờ “dân chủ cấp tiến”, tổ chức đảng phái đối lập “hình thành một tập hợp lực lượng dân chủ có đủ sức mạnh đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam”.
4. Mỹ và các thế lực thù địch đã và đang tiếp tục đẩy mạnh đòn “lật án”, xuyên tạc lịch sử
Ở Việt Nam, chúng chỉ đạo ráo riết đánh đòn “lật án” từ đầu những năm 90. Trong nước đã xuất hiện những tài liệu phục vụ cho “lật án”; kèm theo đó là cuộc vận động ngầm trong số cơ hội chính trị, xét lại cũ và mới, tuy đã gây được sự hoài nghi trong một bộ phận quần chúng, cán bộ, đảng viên; nhưng về cơ bản, chúng vẫn chưa thực hiện được ý đồ. Hiện nay, Mỹ và các thế lực thù địch đang chỉ đạo phối hợp trong và ngoài nước để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ý đồ “lật án”. Chúng đang viết và phát tán nhiều tài liệu bôi nhọ sự lãnh đạo của Đảng ta trong quá khứ.
Gần đây, chúng đã dịch ra tiếng Việt, chuyển vào Việt Nam và phát rộng rãi trên mạng Internet tài liệu gọi là “Báo cáo mật của Khơrúpxốp về Stalin”. Đây là ý đồ chuẩn bị về mặt lý luận cho bọn chống đối ở trong nước. Tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, CIA đã chỉ đạo tiến hành một đợt mới viết tài liệu và vận động ngầm cho ý đồ “lật án”. Theo chúng, sẽ có những tài liệu loại này gửi lên Tổng Bí thư và Bộ Chính trị. Chúng chỉ đạo trước hết vẫn phải tập trung vào Việt kiều, từ vận động để “sửa sai” cho “vụ xét lại chống Đảng”, với luận điệu tuyên truyền “đây là lỗi lầm nặng nhất mà Đảng mắc phải”. Chúng xác định rằng, đây là khâu then chốt nhất trong đòn “lật án”, đánh vào chỗ này sẽ nảy sinh ra nhiều vụ khác, từ đó mà mở rộng đấu tranh, dựng “ngọn cờ”.
Trắng trợn vu cáo, xuyên tạc lịch sử, chúng cho rằng: “Dù không có Đảng Cộng sản, nhiều thuộc địa vẫn giành được độc lập mà ít tốn xương máu. Sự hao tổn xương máu là do Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra”. Chúng lớn tiếng đòi “lật án” vụ “Cải cách ruộng đất”, vụ “Nhân văn giai phẩm”, vụ “Nhóm xét lại chống Đảng”. Và, cái gọi là vụ “đầu độc bốn vị tướng”,v.v. và v.v.. Gần đây, xuất hiện tài liệu “Việt Nam và thế giới trong thế kỷ XX”. Tài liệu này đã xuyên tạc vụ án “Nhóm chống Đảng” là “một điểm đen, một vết thương dai dẳng trong lịch sử và cơ thể chúng ta”. Vụ “Nhóm chống Đảng” không có thật - mà là một sự dàn dựng, chủ đích là thâu tóm quyền lực, đánh vào những ai có thể ngăn trở mưu đồ giành quyền”.
Sau khi chiến tranh Irắc kết thúc, bọn cơ hội chính trị và chống đối trong nước tuyên truyền rằng: “Phải dựa vào Mỹ về đường lối chính trị”. Và, “Việt Nam cần phải tỉnh ra”. Chúng cho rằng, “Mỹ tấn công Irắc sẽ có nhiều biến động chính trị. Và, cục diện thế giới sẽ ảnh hưởng đến xu thế phát triển tại khu vực và Việt Nam. Mỹ thắng ở I-rắc sẽ tạo ra thuận lợi để lực lượng cấp tiến phát triển, sự phối hợp trong, ngoài sẽ mạnh hơn. Mỹ sẽ đứng về phía những người “bị đàn áp nhân quyền”, mặt trận chính trị sẽ nóng bỏng hơn. Mỹ sẽ gây sức ép đòi “dân chủ hóa” chế độ, kết hợp với các hoạt động chống đối, tất yếu sẽ làm thay đổi cục diện ở Việt Nam. Việc nhượng bộ những đòi hỏi dân chủ hoặc phân chia quyền lãnh đạo cho các thành phần khác sẽ mở đầu cho sự trở lại của chế độ tư bản”.
5. Dùng vấn đề “tự do”, “dân chủ tư sản”, “đa nguyên chính trị” gây sức ép, đòi Nhà nước Việt Nam thay đổi bản chất chế độ
Từ năm 1986 đến nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước dấy lên một cao trào tuyên truyền cho “tự do”, “dân chủ tư sản”, “chủ nghĩa đa nguyên”. Đẩy mạnh hoạt động này, chúng nhằm hai mục đích. Thứ nhất, chúng gây sức ép với Nhà nước ta chấp nhận và hợp pháp hóa sự có mặt trên chính trường những tư tưởng tư sản và những lực lượng chính trị đối lập chống CNXH. Đây là cái bẫy rất hiểm độc mà chúng đã từng sử dụng ở một số nước Đông Âu và Liên Xô. Nếu chúng ta không sáng suốt, tỉnh táo thì khó lường hết những hậu quả sẽ xảy ra đối với chế độ XHCN ở nước ta, đối với Đảng và nhân dân ta. Thứ hai, nếu như về mặt công khai, mục tiêu này không đạt được, thì “việc tuyên truyền dân chủ, tự do tư sản, tuyên truyền cho đa nguyên, đa đảng sẽ kích động, khuyến khích được những người bất mãn, cá nhân chủ nghĩa, non kém về chính trị nổi lên chống CNXH ở Việt Nam”.
Như vậy, khi sử dụng nội dung trên đây vào các hoạt động phá hoại nội bộ Nhà nước ta, chúng đã “cấy” vào xã hội ta tư tưởng chống CNXH và tạo thế cho các lực lượng phi XHCN phát triển và có chỗ đứng ở Việt Nam. Đến một lúc nào đó, khi có thêm “chất xúc tác” vào, các lực lượng này sẽ là những nhân tố tạo ra “ngòi nổ” làm sụp đổ CNXH ở Việt Nam.
Bản chất của hoạt động tuyên truyền các nội dung trên đây là chống cộng, chống CNXH. Nó làm tan rã, làm triệt tiêu những giá trị tư tưởng của CNXH. Mặt khác, nó là những yếu tố kích thích sự phát triển các nhân tố phi XHCN trong lòng CNXH ở nước ta. Tất cả những việc làm và sự tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài nước trên mặt trận chính trị, tư tưởng trong thời gian qua đã gây tác động tiêu cực không nhỏ đến tình hình tư tưởng - chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Những kẻ cơ hội, xét lại, những phần tử bất mãn đã không tiếc công, tiếc sức tuyên truyền cho chủ nghĩa tư bản và con đường tư bản chủ nghĩa. Không ít người ngây thơ về chính trị đã ăn phải “bả độc” đó với những mức độ khác nhau.
_____________________

Đoàn kết, lời căn dặn thiết tha của Bác 6:18' 11/3/2018 Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngoài cùng bên trái) với các đại biểu về dự Đại hộ...