Thứ Hai, 16 tháng 1, 2017

10 ảnh hưởng tiêu cực của mạng xã hội!!!

Facebook hay Twitter đang khiến bạn rời xa dần thế giới thực, xao nhãng mục tiêu cuộc sống, là nơi người ta cạnh tranh nhau để được nhiều "like"...

1. Giảm tương tác giữa mọi người
Bạn quá chú ý đến các thiết bị điện tử và dành ít thời gian, sự quan tâm đối với những người hiện diện trong cuộc sống thực của mình. Điều này làm họ rất bực bội. Cuối cùng những người xung quanh thậm chí sẽ không muốn đi chơi với bạn nữa.
mangxh-4859-1406858275.jpg
Ảnh: lifehack.
2. Tăng cảm giác muốn gây sự chú ý
Đăng những trạng thái mơ hồ, khó hiểu trên Facebook để thu hút sự chú ý của người khác đang trở thành một thói quen gây khó chịu của những người sử dụng mạng xã hội. Cuộc chiến cạnh tranh lượt like và thông báo sẽ không có hồi kết.
3. Xao nhãng những mục tiêu thực của cuộc sống
Thật dễ dàng để có thể tóm tắt những gì đang xảy ra trên mạng xã hội, mọi người sẽ dần xao nhãng những mục tiêu thực của cuộc sống. Thay vì cố gắng để hiện thực hóa ước mơ bằng cách trở thành một người thực sự tài năng, giỏi giang thì giới trẻ có xu hướng phấn đấu trở thành ngôi sao trên Internet.  
4. Có nguy cơ mắc bệnh trầm cảm
Theo các nghiên cứu gần đây, những người thường xuyên sử dụng mạng xã hội thường có cảm xúc tiêu cực nhiều hơn, bao gồm cả trầm cảm. Sử dụng mạng xã hội đặc biệt có hại với những người tiền sử mắc bệnh trầm cảm. Nếu bạn bắt đầu cảm thấy buồn bã, bi quan, nên ngừng sử dụng mạng xã hội một thời gian.
5. Chuyện tình cảm dễ bị tan vỡ
Bạn không nên dán mắt vào màn hình, tiếp tục ghen tuông và rình mò. Mạng xã hội là lựa chọn dễ dàng để công khai mối quan hệ nhưng thực tế thì lợi bất cập hại. Trên thực tế, nghiên cứu cho thấy những người thường sử dụng Facebook để theo dõi nửa kia của họ dẫn đến những suy đoán, tưởng tượng, cuối cùng là chuyện tình cảm tan vỡ.
6. Sử dụng mạng xã hội ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo
Lướt các trang mạng xã hội sẽ làm tê liệt tâm trí của con người, tương tự như xem truyền hình một cách vô thức. Nếu bạn đã lên kế hoạch làm việc hôm nay thì hãy tắt những ứng dụng mạng xã hội.
7. Xuất hiện những “anh hùng bàn phím”
Mọi người cảm thấy quá thoải mái trên mạng xã hội và bắt đầu nói những điều họ thường không nói trong cuộc sống thực. Nếu bạn không thường xuyên nói tục, chửi thề, chắc chắn bạn sẽ phải tiếp xúc với điều này trên mạng xã hội. Nếu bạn thường xuyên nói những điều như vậy, hãy dừng lại ngay. Bạn không vô danh trên mạng xã hội như bạn nghĩ đâu. Với sự xuất hiện của các “anh hùng bàn phím” trên mạng xã hội, mọi người đang trở nên thô lỗ hơn bình thường.  
8. Thường so sánh bạn với những người khác trên mạng sẽ làm bạn đau khổ
Với sự giúp sức của công nghệ, hình ảnh cũng như hành động hiển thị trên Facebook có thể khác xa với cuộc sống đời thực của người đó. Sau một thời gian, có thể bạn sẽ nghĩ rằng những người quen trên Facebook đẹp và tốt hơn bạn, điều này tạo ra một khoảng cách xã hội. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng tất cả mọi người trên mạng xã hội cũng chỉ là con người như bạn.
9. Mất ngủ
Ánh sáng phát ra từ màn hình điện tử làm ảnh hưởng đến tâm trí và khiến bạn mất ngủ. Ngủ đủ giấc mỗi đêm ngày càng trở nên khó khăn. Cách tốt nhất là không để điện thoại ở gần khi bạn đi ngủ.
10. Thiếu sự riêng tư
Các trang mạng xã hội vẫn đang âm thầm lưu lại (và bán) thông tin cá nhân của bạn. Cả cơ quan tình báo Mỹ cũng đang dính vào vụ lùm xùm liên quan đến việc cho phép chính phủ truy cập vào những dữ liệu cá nhân bao gồm email, các cuộc gọi Skype… Điều này rõ ràng cho thấy rằng sự bảo mật và riêng tư trên Internet đang bị xâm hại. 

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2017

Nhận diện “Tư duy nhiệm kỳ” trong công tác cán bộ và giải pháp phòng, chống


8:25' 31/12/2016
“Tư duy nhiệm kỳ” thường do người đứng đầu chi phối, phụ thuộc khá rõ vào đạo đức, tầm trí tuệ, bản lĩnh, cá tính, văn hóa và động cơ, mục đích của họ. Hiện nay, nhiều ý kiến quan niệm “tư duy nhiệm kỳ” là tranh thủ nhiệm kỳ công tác của mình để xoay xở, trục lợi. Quan niệm này chủ yếu nói đến hành vi của người cán bộ lãnh đạo, quản lý lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để tranh thủ vơ vét lúc đương chức.


Quan niệm về “tư duy nhiệm kỳ”
“Tư duy nhiệm kỳ” là cụm từ được các nhà chính trị, các học giả nhắc tới trong các diễn đàn chính trị, kinh tế - xã hội hiện nay. Lần đầu tiên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc đến “tư duy nhiệm kỳ” tại Hội nghị phổ biến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (ngày 10-10-2011) của Đảng như lời cảnh báo, nhắc nhở cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng phải phòng, chống “tư duy nhiệm kỳ” như một căn bệnh, tệ nạn trong xã hội. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (tháng 10-2016) xem “tư duy nhiệm kỳ”, cũng là một biểu hiện của suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. 
Như vậy, “tư duy nhiệm kỳ” theo nghĩa tiêu cực được hiểu là lối suy nghĩ, hành động không đúng, bất chấp quy luật, điều kiện, hoàn cảnh thực tế của cá nhân hoặc của một nhóm người, của tập thể trong cơ quan, đơn vị, tổ chức, trong nhiệm kỳ thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhằm chủ yếu theo đuổi mục tiêu, lợi ích trước mắt trong ngắn hạn để thu lợi nhiều nhất cả về vật chất và tinh thần cho bản thân, cho “nhóm lợi ích” hoặc cho tập thể mà bỏ qua những mục tiêu, lợi ích dài hạn chung của tập thể, cộng đồng; hoặc do trình độ, năng lực hạn chế, thiếu thông tin, không nắm chắc tình hình, dẫn đến nhận thức không đúng, không đầy đủ, đề ra và thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chương trình, quy hoạch, kế hoạch trong nhiệm kỳ không sát, không đem lại hiệu quả, thậm chí còn gây ra những hệ lụy và hậu quả khó lường cho cả hiện tại và lâu dài. 
Nhận diện “tư duy nhiệm kỳ” trong công tác tổ chức, cán bộ
Trong công tác tổ chức, cán bộ, những biểu hiện của “tư duy nhiệm kỳ” đã và đang xuất hiện với nhiều hình thức, quy mô khác nhau, trên một số lĩnh vực trong công tác tổ chức, cán bộ, cụ thể:
Một là, trong nhận xét, đánh giá cán bộ
Khi nhận xét, đánh giá đối với cán bộ thường nể nang, né tránh theo kiểu “dĩ hòa vi quý”, “chín bỏ làm mười”, “nói việc nhỏ, bỏ việc lớn” để lấy lòng nhau và lấy lòng mọi người. Nhận xét, đánh giá đối với những cán bộ có khuyết điểm hoặc vi phạm thường rất nhẹ nhàng, nhấn mạnh phần ưu điểm, thành tích và phân tích sâu theo chiều hướng có lợi và nương nhẹ, lược bớt, bỏ qua phần hạn chế, yếu kém, khuyết điểm và những vấn đề không có lợi; nếu có vi phạm đến mức phải có hình thức kỷ luật thì cũng biện hộ, đổ lỗi cho khách quan nhằm giảm nhẹ hình thức kỷ luật. Do đó, không ít trường hợp có vi phạm đến mức phải kỷ luật, nhưng cũng được cho qua, hạ xuống mức “kiểm điểm rút kinh nghiệm sâu sắc”. 
Khi nhận xét, đánh giá đối với những cán bộ có thành tích để được khen thưởng hoặc để bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử vào cương vị công tác mới cao hơn thì thường nhấn mạnh một chiều; ưu điểm, thành tích có ít thì phóng đại, tô hồng thành nhiều, khuyết điểm, hạn chế, yếu kém thì ít đề cập đến hoặc nói giảm đi hoặc chuyển thành những lời khuyên, lưu ý trong thời gian tới.
Những biểu hiện về “tư duy nhiệm kỳ” nêu trên đều dẫn đến việc nhận xét, đánh giá cán bộ thiếu công tâm, thiếu khách quan, thiếu chính xác, không thực chất, làm méo mó, sai lệch, không chuẩn xác, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng các khâu khác trong toàn bộ chu trình của công tác cán bộ, vì đánh giá cán bộ là khâu tiền đề, làm cơ sở để thực hiện các khâu khác của công tác cán bộ.
Hai là, trong công tác quy hoạch cán bộ
Quy hoạch cán bộ là để tạo nguồn cán bộ cho lâu dài. Tuy nhiên, do động cơ vụ lợi hoặc do tâm lý “chợ chiều”, tạo cơ hội, điều kiện cho nhau nên không ít trường hợp tiêu chuẩn, điều kiện đã được vận dụng, châm chước, để đưa những người thân, cùng cánh, cùng “nhóm lợi ích” vào danh sách quy hoạch.
Công tác quy hoạch phải tiến hành theo phương châm “động” và “mở”, nhưng thực tế ở nhiều nơi phương châm này chưa được thực hiện tốt. Vẫn còn xảy ra tình trạng khép kín, chỉ quy hoạch những người trong địa phương, cơ quan, đơn vị mình, không muốn mở rộng ra ngoài để số người có đủ tiêu chuẩn được quy hoạch ít đi, tạo điều kiện thuận lợi để đưa người thuộc nhóm thân hữu, “nhóm lợi ích” bổ sung vào danh sách quy hoạch. Không ít trường hợp đã được “phù phép”, “biến hóa” để được đưa vào quy hoạch với những lý do khác nhau.
Một số người có trách nhiệm thường “quan tâm” và “để mắt” đến những người thân của mình, người thân của những người đã có công nâng đỡ mình trước đây để “trả ơn, đáp nghĩa” hoặc đến những đối tượng có những ưu thế, điều kiện, khả năng mới nổi lên có thể lợi dụng được cho động cơ, mục đích của mình. Do đó, có tình trạng bằng nhiều cách khác nhau nhằm tạo ra những “chỗ trống” để có điều kiện đưa những người thân, cùng “cánh hẩu” vào quy hoạch, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận cho “thê đội sau”, để khi mình đã “hoàn thành nhiệm vụ” nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác thì vẫn có “anh em, chiến hữu” kế tục sự nghiệp hoặc còn có chỗ dựa, nhờ vả về sau.
Cũng có tình trạng “quy hoạch treo”. Đó là những người không đủ tiêu chuẩn cũng đưa vào quy hoạch. Thực chất là để “lấy lòng nhau”, ban phát cho nhau cái chức danh này, chức danh nọ. Cũng có tình trạng quy hoạch cán bộ nhưng không sử dụng, vì thấy những cán bộ đó có năng lực, trình độ để tham mưu, giúp lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị trong suốt quá trình lãnh đạo của nhiệm kỳ hoặc những năm còn tại vị, nên tâm lý cán bộ lãnh đạo không muốn cho các cán bộ đó được đi học, luân chuyển hoặc bổ nhiệm lên chức vụ cao hơn; cứ để cán bộ đó công tác lâu dài ở một vị trí, chức danh nhất định, từ đó dẫn đến làm “xơ cứng, thui chột” động lực phấn đấu và phát triển của các cán bộ có năng lực, trình độ.
Ba là, trong công tác luân chuyển cán bộ
Đó là tình trạng thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa dựa trên cơ sở đánh giá và quy hoạch cán bộ, chưa có tiêu chí cụ thể; không xuất phát từ mục đích, yêu cầu nhiệm vụ, mà từ ý muốn chủ quan của một người hoặc của một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Một số trường hợp đưa cán bộ đi luân chuyển trong thời gian quá ngắn, chủ yếu để “dán tem” đã đi luân chuyển và kinh qua làm cán bộ chủ chốt ở cấp dưới, tạo điều kiện để bố trí, bổ nhiệm vào các chức vụ chủ chốt ở cấp trên hoặc chức vụ cao hơn. 
Không ít những trường hợp được luân chuyển không đúng đối tượng, như không phải là cán bộ trẻ, không nằm trong danh sách quy hoạch, chưa được đào tạo cơ bản và cũng không có khả năng phát triển. Có trường hợp đưa cán bộ đi luân chuyển nhưng nơi có cán bộ đi và nơi nhận cán bộ luân chuyển đến còn băn khoăn, chưa có sự nhất trí cao về người cán bộ đó, nhưng cấp trên chỉ trao đổi qua loa rồi ép xuống. Có trường hợp không thuộc đối tượng đi luân chuyển nhưng được những người có trách nhiệm “giúp đỡ” nên đã biến tướng trở thành cán bộ được luân chuyển để đáp ứng theo yêu cầu của địa phương, đến khi rút về thì nghiễm nhiên lại trở thành cán bộ đã được “dán tem” luân chuyển và được bố trí vào các chức vụ cao hơn. Những trường hợp như vậy đã làm hạn chế đến chất lượng và ảnh hưởng đến chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý của Đảng. 
Việc luân chuyển cán bộ đối với một số trường hợp còn có biểu hiện chủ quan, không xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ nên chọn những nơi thuận lợi để đưa người “thân tín” đi và về sau khi hết thời hạn luân chuyển. Tình trạng đó đã dẫn đến bất hợp lý, thậm chí trái ngành, trái nghề, nơi thừa, nơi thiếu cán bộ; vừa không đáp ứng được yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng, vừa hạn chế sự đóng góp của cán bộ luân chuyển đối với địa phương nơi cán bộ đến. 
Cũng có tình trạng có cán bộ “chạy” để được đi luân chuyển ở địa phương, đơn vị thuận lợi cho quá trình công tác, tiến thân của mình. Trường hợp này là do cán bộ làm công tác tổ chức đã thoái hóa, biến chất, nắm chắc tình hình công tác cán bộ ở địa phương, đơn vị chủ động “bán” hoặc tiết lộ thông tin, tạo điều kiện cho cán bộ đó “chạy” để được luân chuyển đến nơi thuận lợi, có điều kiện nhất để phát triển lên vị trí, chức vụ cao hơn trong một nhiệm kỳ. 
Bốn là, trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ
Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý đã tranh thủ thời gian trước khi hết nhiệm kỳ hoặc trước khi nghỉ hưu tiến hành tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ một cách dễ dãi, tràn lan, không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện hoặc không thực hiện đúng quy trình, quy định chung. Không ít trường hợp đã tranh thủ trước khi hết nhiệm kỳ công tác, chuyển công tác khác đã bổ nhiệm, đề bạt con cháu, những người thân quen với mình hoặc người đã “chạy” và coi đó là “chuyện đã rồi”. Đối với lãnh đạo các doanh nghiệp thì tranh thủ trước khi hợp nhất hoặc cổ phần hóa để bổ nhiệm, sắp xếp cán bộ là người thân trong gia đình cùng “nhóm lợi ích” vào các vị trí quan trọng; ngấm ngầm chia chác, tẩu tán tài sản, bố trí người thân vào những công việc “béo bở”, có nhiều lợi ích để dễ bề thao túng quyền lực và trục lợi. 
Một số trường hợp đề bạt, bổ nhiệm hoặc giới thiệu ứng cử để bầu vào các chức danh lãnh đạo, quản lý được “châm trước” hoặc “cho nợ” tiêu chuẩn của chức danh bổ nhiệm và cho phép được “trả nợ” sau. Một số nơi đã bỏ qua hoặc làm tắt một số bước trong quy trình đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, dẫn đến thiếu minh bạch, khi có ý kiến phản ánh, cho là “chuyện đã rồi” để rút kinh nghiệm sau... 
Có những trường hợp bổ nhiệm, đề bạt cán bộ tuy đã thực hiện đúng quy trình, được thảo luận, bàn bạc trong tập thể, nhưng chỉ là dân chủ hình thức, dân chủ giả hiệu, còn thực chất là sự “hợp thức hóa” ý chí của người đứng đầu hay những người chủ chốt. Có không ít trường hợp mặc dù đã thực hiện đúng “quy trình” và bảo đảm nguyên tắc, thủ tục “dân chủ” từ dưới lên, nhưng cuối cùng vẫn là “ý chỉ đạo” của cấp trên, nên không lựa chọn được những người thực sự “có đức, có tài”, đã làm thui chột động lực học tập, rèn luyện, phấn đấu của những cán bộ tốt và tạo nên những dư luận xấu trong nội bộ và đối với những cán bộ được đề bạt. 
Không ít người có phẩm chất, năng lực, trung thực, thẳng thắn và tâm huyết, dám đấu tranh với cái sai và bảo vệ cái đúng thì bị một số người có chức, có quyền dèm pha, ghét bỏ, không sử dụng hoặc bố trí vào những nơi để “ngồi chơi xơi nước” hoặc những nơi đầy khó khăn, vất vả; có người thì bị vô hiệu hóa và đẩy đi chỗ khác hoặc cho nghỉ hưu trước tuổi, nhằm tạo ra chỗ trống để bố trí người cùng “dây”, cùng phe cánh thay thế. 
“Tư duy nhiệm kỳ” chủ yếu vẫn là tình trạng bổ nhiệm cán bộ không vì năng lực thực tiễn công tác mà vì nể nang, quen biết hoặc vì “nhóm lợi ích”. Chính kiểu “tư duy nhiệm kỳ” như vậy đang khuyến khích những kẻ kém tài, hám danh, hám lợi, nhiều tiền, nhiều quen biết... có nhiều cơ hội, điều kiện để có chức, có quyền.
Công tác tổ chức, cán bộ ở một số nơi đã bị chi phối, các thủ tục, quy trình đề bạt, bổ nhiệm được làm hình thức, để hợp pháp hóa một quyết định không hợp lý, hợp tình của người đứng đầu hoặc một nhóm người bằng cơ chế tổ chức. Khi một ai đó đã vào “tầm ngắm’ thuộc diện quy hoạch, lọt vào “mắt xanh” của cán bộ lãnh đạo hoặc đã “chạy đúng, đầy đủ các cửa” thì bằng mọi giá, người làm công tác tổ chức phải có nhiệm vụ đưa cán bộ đó về đúng đích. Đồng thời với nó là tình trạng “chạy chức, chạy quyền” đã và đang diễn ra ở nơi này, nơi khác. Đây là căn bệnh tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ, gây bức xúc trong dư luận thời gian qua. Vấn đề này, qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng cho thấy: Một số ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy nhận trách nhiệm để xảy ra tình trạng một số đồng chí tỉnh ủy viên, lãnh đạo sở, ngành ở những năm cuối nhiệm kỳ, chuẩn bị nghỉ hưu mắc “bệnh cuối đời”, trì trệ, xao nhãng công việc, tranh thủ thu vén cá nhân, tranh thủ điều động, bổ nhiệm người thân không đủ tiêu chuẩn, điều kiện... Hội nghị Trung ương 4 khóa XII cũng đã chỉ ra biểu hiện này trong khi đánh giá tình hình suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Năm là, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Chúng ta chưa có chiến lược đào tạo cán bộ một cách dài hơi để chuẩn bị cán bộ kế cận một cách có hệ thống mà vẫn còn ở tình trạng chắp vá, dẫn đến sau khi bổ nhiệm lại phải cử cán bộ đi học, hoàn chỉnh các điều kiện vì chưa đủ tiêu chuẩn. Chính vì lẽ đó, ở một số nơi, việc lựa chọn cán bộ đi đào tạo không vì mục đích phát triển lâu dài mà để “hợp pháp hóa” bằng cấp hoặc đáp ứng các yêu cầu trước mắt, như nâng lương, nâng ngạch cán bộ.
Tình trạng “học danh vọng”, tổ chức các lớp học và đăng ký dự học chỉ để hoàn chỉnh hồ sơ cán bộ, đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn chức vụ mà chưa chú trọng yêu cầu thực chất, dẫn đến tình trạng “học giả” mà “bằng thật”. Có nơi đẩy những người mình không bằng lòng đi học để ở nhà “dễ làm việc”.
Giải pháp phòng, chống “tư duy nhiệm kỳ” trong công tác tổ chức, cán bộ 
Trong tình hình hiện nay, “tư duy nhiệm kỳ” trong công tác tổ chức, cán bộ xảy ra với tính chất ngày càng tinh vi, mức độ ngày càng nghiêm trọng với những biểu hiện, biến thái khác nhau. Để khắc phục các biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ” trong công tác tổ chức cán bộ nêu trên, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, có chủ trương, quy định, biện pháp cụ thể, thiết thực để kiên quyết đấu tranh, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, “lợi ích nhóm”, tư tưởng chủ quan, duy ý chí, hoặc tư tưởng cục bộ, địa phương, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp. Xây dựng môi trường công tác, làm việc lành mạnh, trước hết là trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế của Nhà nước.
Tổ chức thực hiện nghiêm túc, có kết quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ; thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với việc thực hiện Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 1-11-2011, của Ban Chấp hành Trung ương, về những điều đảng viên không được làm và Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp để nâng cao khả năng tự đề kháng, chủ động phòng, chống “tư duy nhiệm kỳ” gắn với đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm trong cán bộ, đảng viên, trước hết là trong cán bộ chủ chốt, nhất là người đứng đầu.
Thứ hai, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đi đầu trong đấu tranh phòng, chống “tư duy nhiệm kỳ” trong công tác tổ chức, cán bộ, gắn với chống “lợi ích nhóm”, quan liêu, tham nhũng ở địa phương, đơn vị, tổ chức, cơ quan mình trực tiếp lãnh đạo, phụ trách; không bao che, tiếp tay, dung dưỡng, bảo vệ cán bộ cấp dưới có biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ” trong công tác tổ chức, cán bộ. Khắc phục tư tưởng “dĩ hòa vi quý”, nể nang, né tránh, ngại va chạm hoặc thỏa hiệp, che giấu khuyết điểm do sợ bị liên lụy đến trách nhiệm của tập thể, của bản thân.
Thứ ba, công khai, minh bạch trong công tác tổ chức, cán bộ.
Hoàn thiện các quy định về công tác tổ chức, cán bộ, quy định rõ chức danh, tiêu chuẩn cán bộ, bảo đảm không thể lợi dụng “tư duy nhiệm kỳ” trong nhiệm kỳ công tác. Cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác tổ chức, cán bộ để xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu để phát huy hết trách nhiệm của người đứng đầu, không dựa dẫm vào tập thể, không lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp hóa, thực hiện ý đồ cá nhân. Nghiên cứu xây dựng, ban hành cơ chế công khai, minh bạch trong công tác tổ chức - cán bộ, thi đua - khen thưởng để khắc phục triệt để biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ”, lợi ích nhóm, tham nhũng, tiêu cực trong công tác này.
Thứ tư, có quy định cụ thể cơ chế quản lý, theo dõi, kiểm soát lợi ích nhóm, người đứng đầu ở các cấp trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, nhất là trong những thời điểm nhạy cảm, giai đoạn đầu nhiệm kỳ và cuối nhiệm kỳ, hoặc chuẩn bị được điều động, luân chuyển công tác khác. Nếu thấy có biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ” trong quyết định các chủ trương, các vấn đề về công tác tổ chức - cán bộ thì phải có biện pháp chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời, không để xảy ra hậu quả; trường hợp cần thiết thì phải chủ động chuẩn bị người thay thế để đảm đương chức trách, nhiệm vụ của cán bộ đó. 
Thứ năm, thực hiện lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ chốt trong hệ thống chính trị một cách khoa học, thiết thực hơn để đánh giá sát, đúng năng lực, trách nhiệm, mức độ hoàn thành nhiệm vụ để kịp thời điều chỉnh hoặc thay thế cán bộ không đủ khả năng, điều kiện, tín nhiệm thấp. Quy định nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức theo vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh để giao và quản lý biên chế cán bộ, công chức. Thực hiện đúng quy định về số lượng cấp phó lãnh đạo, quản lý ở các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, phong cách, kỹ năng công tác; kết hợp việc đào tạo, bồi dưỡng với thực hiện luân chuyển để rèn luyện trong thực tiễn. Xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu cấp chiến lược ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước. Gắn chính sách tinh giản biên chế với việc thực hiện cải cách tiền lương, nâng cao thu nhập cho đội ngũ cán bộ, công chức để phòng, chống “tư duy nhiệm kỳ” gắn với lợi ích nhóm, tham nhũng. Tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, chất lượng thi tuyển công chức, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh. Cơ cấu lại và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức, có chính sách và biện pháp đồng bộ để thay thế những người không đáp ứng được yêu cầu. 
Tập trung củng cố và xây dựng các cơ quan, đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức - cán bộ trong hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức - cán bộ các cấp thực sự “có tâm”, “có tầm”, “có tài”, bảo đảm “trung thành, trung thực, thẳng thắn, trí tuệ, tận tụy, thực tiễn” để góp phần đấu tranh phòng, chống, khắc phục biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ”, “bệnh thành tích” gắn với đấu tranh phòng, chống lợi ích nhóm, tham nhũng, tiêu cực nói chung và trong công tác tổ chức, cán bộ nói riêng.
Thứ sáu, trong quá trình tham mưu về công tác tổ chức - cán bộ, cán bộ tham mưu phải công tâm, khách quan, trung thực, không được để lọt, lộ thông tin, không được “bán” thông tin để cán bộ trong diện nguồn quy hoạch biết để “chạy” được luân chuyển, điều động đến nơi có nhiều thuận lợi, cơ hội thăng tiến. Trong quá trình thẩm định nhân sự cấp ủy khóa mới hoặc tham mưu, bố trí công việc cho cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý, cán bộ tổ chức không được phép gặp cán bộ dự nguồn cấp ủy, cán bộ dự kiến luân chuyển, điều động. Khi có dư luận hoặc đơn, thư tố cáo, khiếu nại về việc có tiêu cực, tham nhũng trong chạy chức, chạy quyền, chạy luân chuyển, chạy vị trí công tác thì các cấp ủy phải chỉ đạo cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra, làm rõ, kết luận và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.
Thứ bảy, mỗi cán bộ, đảng viên, cấp ủy viên, nhất là đồng chí bí thư cấp ủy cần nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân trong việc lựa chọn người lãnh đạo kế tục, tránh chủ quan, hình thức, tránh biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ”. Nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, bè phái, phe nhóm, cục bộ địa phương, từ việc nhận xét, đánh giá cán bộ đến giới thiệu, thẩm định, xét duyệt nhân sự, chọn và bổ nhiệm cán bộ chính xác.
Cao Văn Thống
Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Phong cách tư duy Hồ Chí Minh


Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là sự kết tinh từ tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, là tài sản tinh thần quý báu của nhân dân ta, giá trị hợp thành nền văn hóa Việt Nam. Mặc dù thể hiện cái riêng, nhưng phong cách tư duy của Người không xa lạ mà mang tính lan tỏa, tác động tích cực tới hành động của các thế hệ người dân Việt Nam yêu nước nói riêng, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới nói chung.
Được hình thành từ con người có đức dày, tâm trong, trí sáng, tầm cao trí tuệ, nhân cách, ý chí lớn lao, hoạt động phong phú, đa dạng trên không gian, thời gian rộng lớn, với nhiều lĩnh vực, vị trí công việc khác nhau, nhưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh là biểu hiện đặc sắc của sự độc lập, tự chủ, sáng tạo.
Độc lập, tự chủ, có nghĩa là Hồ Chí Minh không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào một luồng ý kiến nào, không bắt chước, “theo đuôi” ai, kể cả “theo đuôi quần chúng”. Trên cơ sở tiếp thu nhiều luồng tư tưởng tiến bộ của Việt Nam và thế giới, trong từng thời kỳ, Người đúc kết, tổng hòa thành cái riêng mà không sao chép, giáo điều, máy móc. Đối với chủ nghĩa Mác – Lê-nin - lý luận chính trị nền tảng rất quan trọng hình thành nên tư tưởng của mình - thì Hồ Chí Minh coi là “mặt trời soi sáng”, “trí khôn”, “cái cẩm nang thần kỳ” có tính chất phương pháp luận chỉ dẫn hành động của con người, là “bàn chỉ nam” cho con tàu đi. Đồng thời, coi việc học tập chủ nghĩa Mác – Lê-nin là học tập cái tinh thần xử trí đối với việc, với người và với mình. Vì vậy, Người tiếp nhận điều bản chất nhất, mục tiêu cuối cùng của lý luận Mác – Lê-nin là đấu tranh giải phóng con người, là chủ nghĩa nhân đạo mác xít, và cho rằng: “hiểu chủ nghĩa Mác – Lê-nin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lê-nin được”1. Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê-nin bằng toàn bộ cái tâm trong sáng, sự khát vọng giải phóng: dân tộc, xã hội - giai cấp và con người, thông qua hoạt động trong phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, chứ không theo kiểu kinh viện, tầm chương trích cú. Chúng ta thấy rất hiếm khi viết, Người trích dẫn nguyên văn những quan điểm của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin cũng như của những nhà tư tưởng khác. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Người viết và sau đó đọc vào ngày 02-9-1945, khi dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, Người không trích nguyên văn, chỉ lấy ý và biến nghĩa một số chữ cho phù hợp với tư duy của mình và tình hình thực tại2.
Hồ Chí Minh là người tiếp thu những tư tưởng tiến bộ ở trong nước và thế giới, kết hợp nhân tố chủ quan rồi tạo thành tư tưởng của mình, nhưng tư tưởng của Người không phải là con số cộng của nhiều luồng tư tưởng, học thuyết, mà là sự kết tinh luồng ánh sáng trí tuệ của dân tộc và nhân loại. Được như thế là bởi Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ, biết kế thừa có chọn lọc những tư tưởng, nguyên lý của các nhà lý luận, nhà tư tưởng của dân tộc Việt Nam và thế giới. Nhiều người nước ngoài cảm nhận, trong phong cách Hồ Chí Minh có dáng dấp của V.I. Lê-nin, Găng-đi, của Oa-sinh-tơn,… thậm chí còn thấy có một số nét của chính mình. Phong cách Hồ Chí Minh là riêng biệt, đặc sắc, điều mà không ít người khát khao muốn học tập. Nhà thơ Liên Xô Ô-xíp Man-đen-sơ-tam, vào cuối năm 1923, sau khi gặp gỡ, trò chuyện với Nguyễn Ái Quốc, đã viết một bài đăng báo Ogoniok (Ngọn lửa nhỏ), có đoạn: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai,… Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”3. Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ từ sớm và được rèn giũa qua bao nhiêu năm tháng hoạt động cách mạng. Năm 1923, Người kể lại với một người bạn nước ngoài: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái,… Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”4. Vì có tư duy độc lập, tự chủ, nên Người chọn con đường sang Pháp, các nước châu Âu, châu Mỹ và đi hầu khắp các châu lục khác để nghiên cứu, khảo sát, tìm mục tiêu, con đường cứu nước mới, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và xu thế của thời đại. Từ người tìm đường, Hồ Chí Minh trở thành người mở đường, người dẫn đường cho dân tộc Việt Nam phát triển.
Hồ Chí Minh có phong cách tư duy sáng tạo. Sáng tạo, sáng tạo và sáng tạo là tư duy của Người trong cuộc sống. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định: cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Người cho rằng: “Lý luận do kinh nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước ta, do kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó thành ra lý luận. Nhưng phải biết khéo lợi dụng kinh nghiệm. Nếu thấy người ta làm thế nào mình cũng một mực bắt chước làm theo thế ấy. Thí dụ: nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”5. Một số người cho rằng sự sáng tạo trong tư duy Hồ Chí Minh là sự “vượt gộp”, tức là gộp tất cả những gì là tốt đẹp, tinh túy đã có để vượtlên phía trước, nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. “Vượt gộp” không phải là việc dễ dàng trong tư duy, phải biết gộp những gì và làm thế nào để gộp đã khó, nhưng biết vượt thì lại càng khó hơn. Con đường phát triển tư tưởng, tri thức của cá nhân hay một dân tộc và toàn nhân loại luôn là sự “vượt gộp” như vậy. Điều này, nhiều nhà tư tưởng nêu lên từ lâu: thế hệ sau phải biết đứng lên vai những người khổng lồ đi trước thì xã hội mới phát triển được6.
Là một thành viên của tổ chức chính trị, Hồ Chí Minh phải có trách nhiệm chấp hành những quyết định của tổ chức. Nhưng với Người, chấp hành không có nghĩa là máy móc, mà là vận dụng những quyết định, nghị quyết của tổ chức cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Thực tiễn cho thấy, Quốc tế Cộng sản đã có những quyết định đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng thế giới và phong trào giải phóng dân tộc do đảng cộng sản lãnh đạo ở các nước thuộc địa, phụ thuộc. Nhưng, Quốc tế Cộng sản có lúc không tránh khỏi những hạn chế trong nhận định, đưa ra chủ trương chưa hẳn phù hợp đối với cách mạng ở các nước thuộc địa. Vì thế, Hồ Chí Minh đã căn cứ vào tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam để vận dụng nghị quyết, quyết định của Quốc tế Cộng sản cho sát hợp, mặc dù có lúc bị hiểu sai. Quá trình xây dựng xã hội mới, trên cơ sở nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Người đã có quan điểm thực tiễn để vận dụng cho phù hợp với một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ, tiểu nông lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trong điều kiện vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược. Tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh biểu hiện rõ ở chỗ, khi cho rằng, Việt Nam “không thể giống Liên Xô” và “có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Đó là con đường tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội, không phải tiến hành ngay cuộc cách mạng vô sản và đi ngay vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như ở nhiều nước khác.
Như vậy, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo được thể hiện rõ ở việc Hồ Chí Minh rất chú ý xuất phát từ thực tế Việt Nam. Yêu cầu phát triển của Việt Nam là: dân tộc độc lập, đất nước giàu mạnh, mọi người được tự do, dân chủ, hạnh phúc. Điều này được Hồ Chí Minh thể hiện ngay trong tiêu đề văn bản hành chính của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và trong nhiều lần phát biểu khác. Đặc biệt, trong Di chúc, Người nêu: “điều mong muốn cuối cùng” là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”7. Hoàn cảnh thực tế Việt Nam trong từng giai đoạn, mỗi thời kỳ là một tiêu điểm làm cơ sở cho mọi suy nghĩ của Hồ Chí Minh. Những điều diễn ra trong thực tế luôn hiển hiện trước mắt mọi người, nhưng không phải ai cũng nhận thức được như nhau. Nhận thức chính xác tình hình thực tế phụ thuộc rất lớn vào tầm nhìn, bản lĩnh của con người. Với tầm cao trí tuệ, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ, chính xác tình hình thực tế Việt Nam, đưa ra quan điểm sát hợp. Trí tuệ, tầm nhìn và bản lĩnh đã làm nên phong cách tư duy độc đáo, đúng đắn, sáng tạo Hồ Chí Minh. Người là điển hình trong phong trào cộng sản quốc tế đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến những thành công của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, đóng góp phát triển và làm phong phú lý luận Mác – Lê-nin theo đúng yêu cầu của “học thuyết mở” luôn cần được nạp thêm năng lượng mới từ cuộc sống của mỗi dân tộc khi áp dụng. Cũng do thế, nên có lúc Hồ Chí Minh có một số quan điểm khác với quan điểm tập hợp lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa - phong kiến của Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (năm 1928), nhưng lại hoàn toàn đúng với Việt Nam - một nước thuộc địa - phong kiến - khi mọi giai cấp, tầng lớp trong cộng đồng người Việt Nam yêu nước đều có một “mẫu số chung”, một “véc-tơ lực”: giải phóng dân tộc. Trên thực tế, Hồ Chí Minh luôn chú ý hướng Đảng ta đưa ra đường lối, chủ trương sát hợp với từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng và khi thấy nó chưa sát hợp với thực tế thì cùng Trung ương Đảng sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện. Thực tế cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ hai điều: 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh là đúng về mục tiêu và con đường cách mạng Việt Nam; 2. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều bắt nguồn từ đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình cụ thể Việt Nam của Đảng; tư duy giáo điều, tả khuynh, hữu khuynh, chủ quan, duy ý chí tất yếu dẫn đến thất bại.
Hồ Chí Minh là một điển hình của tư duy lấy điều kiện thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát cho mọi quan điểm, đường lối, chi phối hành động của Đảng. Không chỉ vậy, Người chủ động tiếp thu các luồng tư tưởng tiến bộ trên thế giới; phân tích chính xác tình hình thế giới để hành động phù hợp. Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh có ưu thế so với nhiều nhà yêu nước, cách mạng Việt Nam cùng thời là sống và hoạt động ở nước ngoài 30 năm (1911-1941). Thời gian này, Người nghiên cứu, học tập, hoạt động yêu nước và cách mạng, nên đã trực tiếp kiểm nghiệm nhiều quan điểm. Người đã trải qua nhiều thăng trầm, thử thách, sóng gió trong nhiều môi trường sống khác nhau. Sự tự nguyện dấn thân vào cuộc sống lao động, thậm chí làm những công việc rất nặng nhọc và do vậy, bằng cảm nhận trực tiếp mà Người đã thấu hiểu tình cảnh và khả năng cách mạng của các giai cấp, tầng lớp lao động. Hồ Chí Minh hoạt động trong tổ chức cộng sản ở Pháp và ở Quốc tế Cộng sản, nơi mà Người tiếp thu dần dần lý luận cách mạng Mác – Lê-nin và rèn luyện tư duy biện chứng duy vật; hoạt động trong một môi trường rộng rãi, đi đến khoảng trên 30 lượt nước trên thế giới, đã hai lần bị đế quốc, thực dân giam cầm, tù đày, thậm chí chỉ vì luôn nhiệt thành với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, có lúc bị những người cùng chí hướng hiểu sai. Hồ Chí Minh có 19 năm làm Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam và 24 năm làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Là con người lăn lộn với thực tiễn và quảng giao quốc tế, từ thuở hàn vi cho đến cả khi làm Chủ tịch nước và Chủ tịch Đảng, Người không ngừng học tập, rèn luyện, tiếp nhận những tri thức mới trên cái nền bản thể của mình, không bị hòa tan, bắt chước, mà tiếp thu một cách chọn lọc, có phê phán, không phủ định giản đơn. Trên cơ sở đó, để thu nhận, tiếp biến tư tưởng của mình. Người cho rằng: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêxu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêxu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”8. Hồ Chí Minh đem bốn vị rất khác nhau về lập trường, quan điểm và lại càng khác nhau về thời đại ghép vào với nhau, giả định “cho” các vị ấy “họp lại một chỗ” được là vì Người nhìn thấy ở họ một điểm chung là đều “mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Hồ Chí Minh cũng nằm trong điểm chung ấy và cố gắng làm người học trò nhỏ của họ. Sự đặc sắc tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh là kết quả từ phẩm chất, năng lực với hai điểm chủ yếu: bản lĩnh cao cường và trí tuệ mẫn tiệp. Kết quả đó là do một quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện của cả cuộc đời, ở mọi lúc, mọi nơi của Người. Vì thế, Người luôn tự làm chủ cuộc sống và chú trọng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, nên vững vàng trong xử lý mối quan hệ đối với người chung quanh, công việc và làm chủ bản thân.
Thế giới hiện nay là thế giới của tri thức sáng tạo, trong đó phong cách tư duy Hồ Chí Minh là điểm nhấn đáng chú ý. Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh là học tập tinh thần sáng tạo để hành động cho phù hợp với mục tiêu cách mạng đã đề ra. Sáng tạo là trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh rồi đưa vào thực tiễn phù hợp hoàn cảnh cụ thể. Hồ Chí Minh là người vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam thế kỷ XX - thế kỷ bi hùng của các cuộc đấu tranh kiên cường giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Lớp lớp thế hệ người Việt Nam trong thế kỷ XXI, nhất là những cán bộ, đảng viên càng cần sự kiên định mục tiêu và sáng tạo theo phong cách Hồ Chí Minh để xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu trong một thế giới toàn cầu hóa.
GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG
______________

Đoàn kết, lời căn dặn thiết tha của Bác 6:18' 11/3/2018 Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngoài cùng bên trái) với các đại biểu về dự Đại hộ...