Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

Lịch sử của tâm lý học

Rudolf
Goclenius
William James là người đầu tiên để bắt đầu lĩnh vực tâm lý học. Thuật ngữ Tâm lý học được dùng lần đầu tiên trong "Yucologia hoc est de hominis perfectione, anima, ortu", do nhà triết học kinh điển người Đức Rudlof Goeckel (La tinh hóa Rudolph Goclenius (1547-1628)) viết ra, được phát hành tại Marburgvào năm 1590. Tuy nhiên, thuật ngữ này đã được nhà nhân văn học người Croatia là Marko Marulić(1450-1524) dùng trong thực tế từ sáu thập kỷ trước đó trong tiêu đề của chuyên luận La tinh của ông "Psichiologia de ratione animae humanae". Mặc dù chính chuyên luận không được bảo tồn, tiêu đề của nó xuất hiện trong danh sách các công trình của Marulic được người đồng nghiệp trẻ hơn của ông làFranjo Bozicevic-Natalis biên dịch trong "Vita Marci Maruli Spalatensis" của mình (Krstić, 1964). Điều này tất nhiên có thể không phải là việc sử dụng đầu tiên, nhưng nó là việc sử dụng được ghi lại trên tài liệu sớm nhất hiện tại biết được.
Thuật ngữ đã bắt đầu được dùng rộng rãi kể từ khi nhà triết học duy tâm người Đức Christian Wolff (1679-1754) dùng nó trong Psychologia empirica and Psychologia rationalis của ông (1732-1734). Sự phân biệt giữa tâm lý học kinh nghiệm (empirical) và lý trí (rational) này được đề cập trong Encyclodedie của Diderot và được Maine de Biran phổ cập tại Pháp.
Nguồn gốc của từ tâm lý học (psychology) là psyche và logos (-logy)(tâm lý) rất gần giống với "soul" (linh hồn) và logos (-logy) trong tiếng Hy Lạp, và tâm lý học trước đây đã được coi như một nghiên cứu về linh hồn (với ý nghĩa tôn giáo của thuật ngữ này), trong thời kỳ Thiên Chúa Giáo. Tâm lý học được xem là một ngành y khoa được Thomas Willis nhắc đến khi nói về tâm lý học (trong Doctrine of the Soul) với các thuật ngữ về chức năng não, một phần của chuyên luận giải phẫu 1862 của ông là "De Anima Brutorum" ("Hai thuyết trình về Linh hồn của Brutes").
  • Người sáng lập của ngành tâm lý học là Wilhelm Wundt. Vào năm 1879 ông thiết lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên ở Leipzig, Đức. Ông tách Tâm lý học ra khỏi các khoa học khác, từ đây tâm lý học trở thành khoa học độc lập. Ông là người theo chủ nghĩa cấu trúc, quan tâm đến những gì tạo thành ý thức và mong muốn phân loại não ra thành những mảng nhỏ khác nhau để nghiên cứu từng phần riêng biệt. Ông sử dụng phương pháp xem xét nội tâm, yêu cầu một người tự nhìn vào nội tâm và ý thức của bản thân để nghiên cứu. Những người theo chủ nghĩa cấu trúc cũng tin rằng một người phải được huấn luyện để có thể tự xem xét nội tâm của mình.
  • Những người đóng góp cho tâm lý học trong những ngày đầu tiên bao gồm Hermann Ebbinghaus (người tiên phong nghiên cứu trí nhớ), Ivan Petrovich Pavlov (người Nga đã phát hiện ra quá trình học hỏi thông qua những điều kiện kinh điển-phản xạ có điều kiện, là khái niệm quan trọng trong nghiên cứu tâm lý cấp cao con người - ("sinh lý thần kinh cấp cao") và Sigmund Freud. Freud là người Áo đã có rất nhiều ảnh hưởng đến môn tâm lý học, mặc dù những ảnh hưởng này thiên về sinh vật hóa hơn, đóng góp cho ngành khoa học tâm lý. Thuyết của Freud cho rằng cấu trúc hành vi người được thúc đẩy bởi các thành tố cơ bản là ý thức-tiềm thức-vô thức, dựa trên cơ chế "thỏa mãn và dồn nén".
  • Ngày nay, vị trí tâm lý học có vai trò quyết định đến sức khỏe con người. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã định nghĩa sức khỏe là sự tương tác của mối liên hệ giữa Xã hội-Thể chất-Tinh thần con người. Năm 1972 Leonchiev đã làm sáng tỏ khái niệm về nghiên cứu tâm lý con người dựa trên hay hướng đến hoạt động có đối tượng. Xây dựng liệu pháp tâm lý trên hoạt động tích cực của cá nhân. Yếu tố tiền đề quyết định đến hành vi và năng lực cá nhân đó phương tiện trong cấu trúc hoạt động có đối tượng của cá nhân trong môi trường nhất định. Tổng hòa các mối quan hệ xã hội.

Tâm lý học

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu hoạt động tinh thân và tư tưởng của con người (cụ thể đó là những cảm xúc, ý chí và hành động). Tâm lý học cũng chú tâm đến sự ảnh hưởng của hoạt động thể chất, trạng thái tâm lý và các yếu tố bên ngoài lên hành vi và tinh thần của con người. Ngành này tập trung vào loài người, tuy một vài khía cạnh của động vật cũng thỉnh thoảng được nghiên cứu. Động vật ở đây có thể được nghiên cứu như là những chủ thể độc lập, hoặc – một cái nhìn gây tranh cãi hơn – được nghiên cứu như một cách tiếp cận đến sự hiểu biết bộ máy tâm thần của con người (qua tâm lý học so sánh). Tâm lý học được định nghĩa một cách rộng rãi như là "khoa nghiên cứu những hành vi và những tiến trình tâm thần của con người".
Tâm lý học vừa được nghiên cứu một cách khoa học lẫn phi khoa học. Tâm lý học chủ đạo ngày nay đa phần đặt nền tảng trên thuyết thực chứng, thông qua những phân tích định lượng và sử dụng những phương pháp khoa học để thử và bác bỏ những giả thuyết. Tâm lý học có khuynh hướng chiết trung, sử dụng và tiếp thu kiến thức thu thập được từ nhiều ngành khoa học khác để hiểu và lý giải hành vi của con người. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học:
  • Nghiên cứu bản chất của các hiện tượng tâm lý.
  • Nghiên cứu mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý đó.
  • Nghiên cứu vai trò, chức năng của tâm lý đối với hoạt động của con người.

Lương tâm !

          Ai cũng sẽ phải chết và không biết chết lúc nào, vì thế mỗi người nên sống sao có lương tâm cao đẹp và thật ý nghĩa, để không lãng phí đời sống mới là việc cần làm  hơn là ngồi chờ cái chết đến, đánh mất thời gian, công sức vì những việc vô ích không đâu. Một câu hỏi đặt ra, có nên đầu tư tất cả tâm trí vào những tính toán hơn thiệt, tranh chấp hơn thua; có nên nuôi dưỡng trong lòng nhữn mưu đồ, tham vọng bất chính; có nên ôm giữ những thù hận, oán hờn…? Thật không nên, bởi như thế là lãng phí đời sống, quên bỏ hạnh phúc trong hiện tại, làm như thế là đem phiền não khổ đau, lo lắng muộn phiền, đố kỵ, oán ghét, hận thù….cho nhau, sẽ làm cho cuộc đời chúng ta mất an vui và hạnh phúc. Khi cái chết gần kề, con người ta mới thấy rằng bao nhiêu ân oán tình thù-những điều mà từ lâu ta luôn canh cánh trong lòng đều như sương khói, vì thế có một câu nói rất hay rằng: “ Đời người như một cuốn sách, điều quan trọng không phải là cuốn sách dài hay ngắn mà ở chỗ cuốn sách đó hay hay dở”; và cũng có câu rằng: “Con người ta chỉ chết hẳn khi đã chết trong lòng người sống” , điều cốt lõi làm cho mỗi người sống mãi trong lòng mọi người không phải là cái tên khai sinh mà chính là nhân cách, lương tâm cao đẹp mà họ đã có. Chính vì vậy , trong cuộc sống  xét về mặt nhân sinh quan thì  “Điều đáng sợ nhất không phải là cái chết về thể xác mà là cái chết về lương tâm khi thể xác còn sống”.
          Vậy lương tâm là gì? Theo ngôn ngữ thông thường thì “lương tâm” có nghĩa là một “tấm lòng tốt lành” hay một “cõi lòng chính trực” hiện diện bên trong một con người để giúp người đó phân biệt điều đúng và điều sai, điều thiện và điều ác.
Theo từ điển tiếng việt thì “lương tâm” là yếu tố nội tâm tạo cho mỗi người có khả năng tự đánh giá hành vi của mình về mặt đạo đức và do đó tự điều chỉnh mọi hành vi của mình.
Trong cuộc sống hàng ngày, nếu chúng ta để ý thì hầu như không ngày nào trôi qua mà mỗi chúng ta không nghe tiếng nói của lương tâm, lương tâm  lên tiếng nhắc nhở chúng ta về những lời nói, một suy nghĩ thầm kín hay về một hành vi nào đó. Lương tâm cắn dứt chúng ta về một lời nói thiếu thành thật,lương tâm đặt câu hỏi với chúng ta về thái độ tự cao trong một lời nói tự tô bóng thành tích của mình trước mặt người khác; lương tâm phản đối khi chúng ta làm tổn thương một người nào đó; lương tâm theo sát chúng ta trong những hành vi bí mật nhất để cáo trách và lên án khi những hành vi đó là trái với chuẩn mực đạo đức xã hội, đi ngược với luân thường đạo lý…gây hậu quả tai hại cho chính bản thân hay những người chung quanh mình.
          Lương tâm cũng làm chùn bước những thú vui không đoan chính, làm cản trở những toan tính tội ác, lương tâm có lúc làm chúng ta mất ngủ, đeo đuổi dai dẳng cắn dứt trong lòng mỗi người cho dù hành vi hay lời nói đã thuộc về quá khứ từ lâu. Trong đời sống chúng ta thấy rằng một người không thể sống bình an được khi chưa giải quyết “ổn thỏa” với những đòi hỏi của lương tâm, Châm ngôn Trung Quốc cho rằng: “Nếu có lương tâm trong sáng cả đời bạn sẽ không phải sợ tiếng gõ cửa lúc nửa đêm”; còn Trình Di lại đúc kết rằng: “ Lấy lòng chân thật cảm động người ta, thì người ta cũng lấy chân thật mà đãi lại; lấy cách trí thuật cài đạp người ta, thì người ta cũng lấy trí thuật mà xử lại”, nếu cứ luẩn quẩn mã như thế cuộc đời liệu có yên ổn và an nhàn không?
          Mặt khác, theo quan điểm triết học mác xít  bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội; trong đó chúng ta thấy rằng mối quan hệ người- người là cơ bản và cốt lõi, quan hệ đó lại dựa trên những chuẩn mực đạo đức xã hội là chính, yếu tố tình cảm, tình yêu thương con người, lối sống vì nhau lại được chú ý rõ nét. Điều đó chính là biểu hiện cơ bản của con người sống có nghĩa, có tình; có trước , có sau; sống vì nhau… hay nói cách khác là con người sống có lương tâm cao đẹp. Đó cũng là nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Do vậy sống có lương tâm cao đẹp trước hết là nhu cầu của mọi người, không một ai lại không muốn mình thực sự sống có ý nghĩa, thực sự đẹp trong mắt mọi người cũng như của chính mình; hạnh phúc với chính mình nghĩa là được người khác thừa nhận và hạnh phúc hơn nữa khi chính mình cũng thấy thoải mái và vừa lòng với chính mình, hạnh phúc toàn vẹn và tuyệt vời nhất khi con người sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống có lương tâm một cách đúng nghĩa, điều đó không chỉ tựu chung ở nét đẹp bên ngoài mà còn phải  đẹp ở hành vi, thái độ và quan điểm sống…Sống có lương tâm còn thôi thúc con người biết nghĩ cho người khác, biết sống vì người khác…chứ không quá cá nhân, ích kỷ… Nghĩ cho người khác để bất cứ hành vi và thái độ nào của mình cũng đừng làm cho người khác đau, không làm cho người khác khó chịu…; sống có lương tâm là chúng ta biết sống dung hòa mọi mặt; môi trường sống và làm việc, quan hệ xã hội, gia đình…một hành động giúp đỡ người già cả, tàn tật, người gặp khó khăn hoạn nạn; tham gia một phong trào cứu trợ đồng bào thiên tai, phong trào đền ơn đáp nghĩa, những lớp học tình thương đem ánh sáng văn hóa đến với trẻ em nghèo….tất cả những việc làm ấy là kết quả của một cách sống coi trọng nhân nghĩa, biểu hiện một lương tâm cao đẹp.
          Chúng ta cũng đều biết rằng; không một cá nhân nào sống ngoài tập thể và ngoài một xã hội nhất định; trong sự diễn tiến hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân bao giờ cũng gắn liền và mang đậm dấu ấn của môi trường xã hội mà cá nhân đó là thành viên.  Chính vì vậy con người sống, làm việc luôn đặt mình trong mối quan hệ phong phú và đa dạng, và chính điều đó làm cho mỗi người ngày càng hoàn thiện nhân cách của mình phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Và tất yếu nếu cá  nhân nào tách khỏi xã hội, tách khỏi tập thể, sống ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, hẹp hòi, vi phạm các chuẩn mực đạo đức, độc ác làm tổn hại đến người khác và xã hội… thì sẽ không còn tồn tại trong lòng mọi người như một con người theo đúng nghĩa của nó; hay nói cách khác là họ sẽ mãi mãi chết trong lòng mọi người đang sống.
          Do vậy, trong cuộc sống mà chúng ta đã và đang trải nghiệm mỗi người đều cảm nhận rằng: “Điều đáng sợ nhất không phải là cái chết về thể xác mà là cái chết về lương tâm khi thể xác còn sống”.
          Như vậy có thể nói rằng, xã hội dù phát triển đến mức nào đi nữa thì những giá trị truyền thống, cội nguồn văn hóa của dân tộc; những chuẩn mực đạo đức, lối sống thủy chung, có nghĩa có tình, sống vì nhau, sống có lương tâm cao đẹp.. vẫn cần được bảo tồn và trân trọng.
          Tôi đã từng đọc ở đâu đó có người viết rằng:
Khi anh sinh ra
Mọi người đều cười
Riêng anh lại khóc
Hãy sống sao để khi anh chết
Mọi người đều khóc
Còn môi anh thì nở nụ cười !
nghe qua tưởng rằng chỉ là vài câu vui nhộn nhưng nó lại mang một ý nghĩa hết sức sâu sắc! bạn hãy ngẫm thử xem!




Đoàn kết, lời căn dặn thiết tha của Bác 6:18' 11/3/2018 Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngoài cùng bên trái) với các đại biểu về dự Đại hộ...