Thứ Tư, 28 tháng 12, 2016

Thực hiện tốt chính sách tôn giáo góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc


Tôn giáo và dân tộc có mối quan hệ khăng khít. Trong lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định tôn giáo và công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược, có tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam có 14 tôn giáo và 38 tổ chức tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân, với hơn 25 triệu tín đồ (chiếm hơn 25% dân số); có 83.000 chức sắc, 250.000 chức việc tôn giáo; gần 25.000 cơ sở thờ tự của các tôn giáo ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Với chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam, đông đảo chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc; đồng bào tôn giáo và không theo tôn giáo đoàn kết, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng và củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh trật tự,… góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới.
Chủ tịch nước Trần Đại Quang tiếp các đại biểu của 17 tổ chức tôn giáo Việt Nam, nhân kỷ niệm 71 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. (Ảnh: TTXVN)
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hết sức chăm lo đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Tại Đại hội XII của Đảng, một lần nữa, vấn đề này được khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”1. Để thực hiện tốt chính sách tôn giáo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp; trước hết, cần tập trung làm tốt những nội dung cơ bản sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, nhất là đối với cấp uỷ, đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp về vai trò, nhiệm vụ công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, nhằm giúp đồng bào các tôn giáo thực hiện tốt phương châm: “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, “Nước vinh, đạo sáng”, “Sống phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc”, gắn bó với dân tộc, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”. Do vậy, trong thực hiện, các cấp cần phân định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý nhà nước của chính quyền; không ngừng phát huy vai trò vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể quần chúng trong việc động viên đồng bào có đạo tham gia thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết, phấn đấu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp. Để đạt hiệu quả, các ngành, các cấp cần coi trọng việc tổ chức cho cán bộ, nhân dân nói chung, đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng học tập các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với công tác tôn giáo. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích, giác ngộ cho tín đồ, chức sắc, chức việc các tôn giáo hiểu được trách nhiệm của mình đối với dân tộc và đất nước, góp phần tăng cường sự đồng thuận giữa đồng bào tôn giáo và không theo tôn giáo cũng như giữa các tín đồ tôn giáo khác nhau. Qua đó, để đồng bào nắm và thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước ta. Đây chính là cơ sở để nhân dân nhận rõ những hành vi lợi dụng tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào tôn giáo. Giải pháp này vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, có ý nghĩa sâu sắc trong việc ổn định, đoàn kết đồng bào tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng bào vùng sâu, vùng xa, do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội kém phát triển nên đời sống khó khăn, trình độ dân trí thấp. Đây thực sự là mảnh đất thuận lợi để kẻ xấu lợi dụng truyền đạo trái phép, gieo rắc tà đạo, xây dựng cơ sở để chống phá cách mạng, chống lại đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Như vậy, chỉ có cải thiện, ổn định và nâng cao dần đời sống chính trị - tư tưởng cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng có đông tín đồ tôn giáo thì mới đưa được đường lối của Đảng, chính sách của Chính phủ đến với đồng bào, để đồng bào hiểu rõ bản chất, âm mưu thâm độc của kẻ thù. Do vậy, các ngành, các cấp cần rà soát, kịp thời bổ sung những chính sách đầu tư sát hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo; tổ chức thực hiện đồng bộ, chặt chẽ từ trung ương đến cơ sở, đảm bảo các loại vốn đầu tư thực sự có hiệu quả, tạo điều kiện để đồng bào phấn đấu vươn lên thoát nghèo một cách bền vững, hòa nhập với tiến trình đi lên của đất nước. Hiện nay, cần tập trung mọi nguồn lực để thực hiện tốt Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 của Chính phủ. Trong thực hiện, cần phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội cùng các tổ chức xã hội tích cực vận động đồng bào các tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nhất là Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Đồng thời, các đoàn thể tích cực phát triển đoàn viên, hội viên, tăng cường xây dựng lực lượng nòng cốt cho phong trào quần chúng, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân ở địa phương. Qua đó, góp phần cùng nhân dân cả nước khắc phục khó khăn, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Ba là, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Thực tiễn thời gian qua minh chứng: đội ngũ cán bộ giữ vai trò hàng đầu, tác động trực tiếp đến hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo và hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động tín đồ các tôn giáo. Do đó, để xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo bảo đảm dài hạn, khoa học, hợp lý, công việc đầu tiên là phải tiến hành khảo sát, thống kê số lượng cán bộ làm công tác tôn giáo, nhất là đánh giá năng lực, trình độ của độ ngũ này. Từ đó, phân loại cán bộ theo trình độ để có kế hoạch bồi dưỡng đúng đối tượng. Kế hoạch bồi dưỡng cán bộ cần xác định theo trình tự đối tượng dự học ở các cấp; trên cơ sở xác định mục đích, yêu cầu của từng khóa học. Đối với những địa phương có nhiều hoạt động tôn giáo, cần ưu tiên số lượng nhằm tăng cường đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở, những người trực tiếp giải quyết vấn đề liên quan đến tôn giáo ở cơ sở; nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, vùng có vấn đề tôn giáo mới phát sinh. Trong thực hiện phải phân công, phân cấp hợp lý công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác tôn giáo, bảo đảm vừa tuân thủ Quy chế đào tạo, bồi dưỡng của Chính phủ, vừa phù hợp với thực tiễn ở mỗi cấp, mỗi cơ sở đào tạo ở từng vùng, từng địa phương. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng, các cấp cần đa dạng hóa các loại hình, nội dung phải luôn mới, sát hợp thực tế, thậm chí phải có tính “vượt trước” thực tế, nhằm dự báo và chuẩn bị các phương án sẵn sàng nếu có điểm nóng xảy ra. Để nội dung “thẩm thấu” vào đối tượng đào tạo, bồi dưỡng, cần phải tích cực đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp với từng đối tượng, từng vùng tôn giáo khác nhau. Có như vậy mới xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra cả trước mắt và lâu dài.
Bốn là, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật. Điều này thể hiện sự kế thừa và tầm nhìn mới của Đảng đối với các tổ chức tôn giáo hợp pháp. Tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt chính là tạo điều kiện cho các tôn giáo phát triển lành mạnh, tiền đề để chúng ta đoàn kết được họ vào trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là cách giải quyết rất khoa học, nhạy bén trong giai đoạn hiện nay, vừa đảm bảo tôn trọng tự do, tín ngưỡng tôn giáo, vừa kiểm soát được sự phát triển lành mạnh theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật, vừa đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người có tôn giáo bao giờ cũng có “bổn phận kép”: bổn phận với giáo hội và bổn phận với Nhà nước. Do đó, chúng ta phải kết hợp hài hòa “bổn phận kép” đó thì mới thuyết phục được đồng bào tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động xã hội, cùng cộng đồng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chức sắc, chức việc tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với giáo dân; uy tín, tiếng nói của họ thường được đồng bào tôn giáo tin theo. Vì vậy, cùng với công tác vận động, cảm hóa, Đảng và Nhà nước ta cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cả về vật chất lẫn tinh thần với họ và có kế hoạch tạo nguồn phát triển lâu dài đội ngũ cốt cán tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhất là ở những địa bàn trọng điểm. Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và bổ sung hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, pháp quy về tôn giáo.
Năm là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và những hoạt động tôn giáo trái quy định của pháp luật. Điều này thể hiện thái độ kiên quyết, không khoan nhượng của Đảng và Nhà nước ta đối với những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại cách mạng Việt Nam. Bởi, chỉ có như vậy mới đảm bảo được quyền tự do chân chính của đồng bào có đạo hoạt động tôn giáo tự do, bình đẳng, đúng pháp luật; có bảo đảm quyền ấy mới làm cho đồng bào có đạo tự giác chống lại những thế lực lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện mưu đồ xấu. Đây là việc rất cấp thiết trong tình hình hiện nay, khi mà các tôn giáo và các hiện tượng tôn giáo mới phát triển rầm rộ, khó kiểm soát. Các địa phương cần phát hiện sớm và chủ động đấu tranh với những hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trái pháp luật, đạo đức, thuần phong mỹ tục,…; đồng thời, hướng họ đi vào hoạt động lành mạnh, không vi phạm pháp luật. Để đạt hiệu quả, cấp ủy và chính quyền các cấp cần thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Đồng thời, làm tốt công tác vận động quần chúng, tranh thủ đội ngũ già làng, chức sắc, chức việc, đội ngũ cốt cán vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng bào theo đạo. Kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng, vi phạm pháp luật Nhà nước. Cùng với đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại về dân tộc, tôn giáo, giúp cho cộng đồng thế giới hiểu rõ chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và thực tế tình hình đời sống, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Làm tốt công tác này sẽ góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội và huy động sự đóng góp của đồng bào các tôn giáo trong củng cố, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
Là một bộ phận quan trọng trong cộng đồng dân tộc, đồng bào các tôn giáo luôn gắn bó, đoàn kết, đồng hành với đồng bào cả nước, phấn đấu vì lợi ích chung của dân tộc, của cách mạng. Mong muốn của đại bộ phận tín đồ tôn giáo là xóa bỏ áp bức, bất công, xây dựng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Điều mong muốn của đồng bào có đạo cũng là mục tiêu, lý tưởng của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Vì thế, chúng ta cần nhận thức đúng và thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước để không ngừng tăng cường, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
TS. NGUYỄN XUÂN TRUNG, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
_______________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr.165.

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

Từ quan điểm về dân chủ của Ph.Ăng-ghen
Cùng với C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã có quá trình nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn sôi nổi để xây dựng chính đảng độc lập của giai cấp công nhân. Trong quá trình đó, Ph.Ăng-ghen đã để lại những tư tưởng sâu sắc, khá toàn diện về dân chủ. Những tư tưởng này cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và tính thời sự đối với công cuộc đổi mới của đất nước, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với công tác xây dựng đảng, nhất là trong công tác cán bộ hiện nay.
Từ quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa...
Theo C.Mác và Ph.Ăng-ghen, từ dân chủ chủ nô đến dân chủ tư sản và đến dân chủ vô sản (dân chủ XHCN) là những bước tiến của lịch sử. Các ông đã đánh giá một cách khách quan nền dân chủ tư sản, mặc dù là bước tiến bộ so với chế độ chuyên chế phong kiến nhưng dân chủ tư sản còn rất nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Ph.Ăng-ghen viết: “Tự do chính trị là tự do giả, là chế độ nô lệ tồi nhất; nó chỉ là cái vẻ bề ngoài của tự do, và vì thế, trên thực tế, nó là chế độ nô lệ. Bình đẳng chính trị cũng như vậy, vì thế chế độ dân chủ, giống như bất kỳ mọi hình thức quản lý nào khác, cuối cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che đậy ở trong đó tất yếu sẽ bộc lộ ra; hoặc là chế độ nô lệ thực sự, tức là chế độ chuyên chế không che đậy, hoặc là tự do thực sự và bình đẳng thực sự, tức là chủ nghĩa cộng sản”(1). Như vậy, Ph.Ăng-ghen đã vạch trần bản chất giai cấp của dân chủ tư sản, đó là dân chủ đối với thiểu số bóc lột và chuyên chính đối với đa số nhân dân lao động. Đó là nền dân chủ chứa đầy mâu thuẫn. Cách mạng XHCN là bước đi tất yếu để tiến tới một xã hội dân chủ chân chính. Ph.Ăng-ghen cho rằng, xã hội XHCN - cộng sản chủ nghĩa sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện trong thực tế nguyên tắc: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(2). Theo Ph.Ăng-ghen, trong giai đoạn thứ nhất của cách mạng XHCN, giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị, phải “giành lấy dân chủ”. Chỉ có giành được chính quyền nhà nước, giai cấp vô sản mới xây dựng và phát huy được nền dân chủ XHCN, mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình là đưa nhân dân, trước hết là nhân dân lao động trở thành người chủ của xã hội, là chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực.
Trong xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân, Ph.Ăng-ghen đặc biệt chú trọng đến vấn đề dân chủ trong đảng. Năm 1885, sau 33 năm Liên đoàn những người cộng sản - chính đảng cách mạng đầu tiên của giai cấp công nhân giải tán, nói về cách tổ chức của Liên đoàn, Ph.Ăng-ghen khẳng định: “Bản thân tổ chức cũng hoàn toàn dân chủ với những BCH được bầu ra và luôn luôn có thể bị bãi miễn”#. Tinh thần dân chủ của Liên đoàn thể hiện từ cách thành lập, quyền hạn, cách kiểm soát BCH - cơ quan lãnh đạo của Liên đoàn, đến cách kết nạp hội viên; từ quy định quyền hạn của cơ quan lãnh đạo đến quyền của các thành viên. Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản do chính Ph.Ăng-ghen soạn thảo quy định: Tất cả hội viên của Liên đoàn đều bình đẳng; cơ quan lãnh đạo các cấp của Liên đoàn từ chi bộ đến Đại hội Liên đoàn do bầu cử lập ra; “Các ủy viên BCH khu bộ và BCH Trung ương được bầu hằng năm, có quyền được bầu lại và có thể bị những người bầu ra mình bãi miễn bất cứ lúc nào”#…(3).
Với những quy định về cách tổ chức Liên đoàn những người cộng sản cho thấy cách tổ chức “hoàn toàn dân chủ” mà Ph.Ăng-ghen nói tới đã được vận dụng vào thực tiễn tổ chức, hoạt động của chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Tư tưởng Ph.Ăng-ghen về dân chủ đã gợi mở rất có ý nghĩa về dân chủ trong công tác cán bộ trên các phương diện tuyển chọn, thiết lập môi trường hoạt động, quản lý cán bộ, nhất là bảo đảm sự giám sát, kiểm soát quyền lực đối với cán bộ.
... Đến thực hiện dân chủ trong công tác cán bộ của Đảng hiện nay
 Thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức đảng đã nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Việc tổ chức đối thoại, góp ý, phê bình, lấy phiếu tín nhiệm đối với đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, đúng quy chế dân chủ ở cơ sở. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã coi trọng thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong đề bạt, bổ nhiệm, đào tạo cán bộ, nên đã củng cố được lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Bầu cử trong Đảng từng bước được đổi mới để dân chủ hơn. Việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Đảng ngày càng thể hiện rõ tinh thần dân chủ, cởi mở trong Đảng. Số lượng ứng cử viên vào BCH các cấp đều chú ý bảo đảm số dư theo quy định... Bên cạnh những tiến bộ đạt được, vấn đề dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ chưa được thực hiện đầy đủ, vẫn còn dân chủ hình thức. Những nội dung thực hiện dân chủ được ghi trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng rất rõ, như: quyền được ứng cử, đề cử và bầu cử; quyền được phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; quyền được thông tin; quyền được bầu cử và quyền bãi miễn những cán bộ không còn đủ tín nhiệm trong cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng và được cụ thể hóa trong các quy chế, quy định, hướng dẫn của Trung ương... nhưng việc thực thi những quyền này còn nhiều bất cập, hạn chế. Việc bầu cử trong không ít trường hợp chưa thật sự dân chủ, người bầu cử không nắm được đầy đủ thông tin, không hiểu rõ những người mình bầu là ai, sẽ làm được gì! Một số cấp ủy, tổ chức đảng thụ động, ỷ lại, hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo, chịu “sự tác động” từ bên ngoài. Việc lấy ý kiến, lấy phiếu tín nhiệm cán bộ còn mang tính hình thức, không ít trường hợp bị biến dạng. Chưa có cơ chế hữu hiệu để kiểm soát quyền lực, bãi miễn, thay thế kịp thời cán bộ yếu kém, không còn xứng đáng. Một số nơi, người đứng đầu độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, coi công tác cán bộ như là một đặc quyền, bí mật, thậm chí bóp méo, lợi dụng dân chủ để hợp thức ý đồ cá nhân. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, tư tưởng cục bộ, ô dù trong công tác cán bộ đang là vấn đề gây bức xúc trong dư luận...
Thời gian tới, để thực hiện tốt hơn dân chủ trong công tác cán bộ, cần chú ý một số vấn đề sau:
Một là, đội ngũ bí thư, cấp ủy viên các cấp cần nhận thức đúng vai trò quan trọng, yêu cầu bức thiết về thực hành dân chủ trong Đảng. Nêu cao trách nhiệm thực hiện đúng những nội dung và thực hành dân chủ trong công tác cán bộ. Coi trọng cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Nắm vững và thực hiện đúng những yêu cầu dân chủ trong các khâu của công tác cán bộ theo các quy định, quy chế, hướng dẫn của Đảng.
Hai là, trong tuyển chọn cán bộ, cần quán triệt và đề cao tính dân chủ, minh bạch, khách quan, công bằng. Trước hết cần thực hiện nghiêm túc các chủ trương Đại hội XII của Đảng đã đề ra, tiếp tục đổi mới công tác bầu cử trong Đảng, phương thức lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Cần thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự theo hướng những người được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Nghiên cứu cơ chế để thực hiện tranh cử. Mở rộng việc thí điểm thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết đối với việc tuyển chọn cán bộ vào các chức danh lãnh đạo, quản lý cấp phòng, sở ở tỉnh, thành phố và cấp vụ ở các bộ, ban, ngành Trung ương. Sớm ban hành quy chế thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thống nhất, đồng bộ trong hệ thống chính trị.
Ba là, mở rộng dân chủ trong đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ và đề cao thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Đánh giá cán bộ phải dựa trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cụ thể theo hướng lấy hiệu quả công việc, sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân làm tiêu chí cơ bản. Cần cải tiến, hoàn thiện quy định về lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý để bảo đảm đánh giá khách quan, dân chủ và có hiệu quả. Thực hiện đúng quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, thời gian, quy trình quy hoạch và luân chuyển cán bộ. Mở rộng việc bố trí các chức danh chủ chốt như: bí thư cấp uỷ, chủ tịch UBND, chánh án toà án nhân dân, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân, chánh thanh tra cấp tỉnh, cấp huyện và cán bộ lãnh đạo cấp trưởng các ngành công an, tài chính, thuế, hải quan… không phải là người địa phương. Thực hiện tốt những chủ trương này chính là tăng cường dân chủ hóa công tác cán bộ.
Bốn là, xây dựng cơ chế bảo đảm các quyền của đảng viên về thông tin, phê bình, chất vấn cán bộ, cơ quan lãnh đạo... Nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo trước tập thể, cấp dưới đã bầu ra mình để bảo đảm sinh hoạt dân chủ trong Đảng. Đây là một nội dung không thể thiếu khi sửa đổi, bổ sung để hoàn chỉnh chế độ bầu cử trong Đảng. Tổ chức và người phụ trách cấp trên phải thật sự lắng nghe và tôn trọng ý kiến của cấp dưới, của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nên chăng, một số nội dung ở phiên họp BCH Trung ương có thể truyền hình trực tiếp cho toàn Đảng, toàn dân theo dõi.
Năm là, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực để phòng, chống sự lạm dụng quyền lực. Đây là việc khó vì đụng chạm tới những lợi ích, thói quen, nếp làm việc của đội ngũ cán bộ, tuy nhiên phải kiên quyết làm. Quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng. Thực hiện nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp BCH Trung ương và cấp ủy các cấp. Có chính sách khen thưởng, bảo vệ những người dám đấu tranh, tố cáo những khuyết điểm và sai phạm ngay trong tổ chức của mình, đồng thời đấu tranh, xử lý những người lợi dụng dân chủ để có hành vi vu cáo gây rối nội bộ.
-----
(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, NXB CTQG - Sự thật, H.1995, tập 1, tr.723. (2) Sđd, tập 4, tr.628. (3) Sđd, tập 4, tr.739.
 Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị
9:24' 4/12/2016
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã thống nhất ban hành Nghị quyết "Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ". Bài viết tập trung phân tích những nhận thức mới nổi bật về ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị.


Nhận diện rõ suy thoái về tư tưởng chính trị

Trong các văn kiện, Đảng ta đã nhiều lần cảnh báo sự suy thoái về tư tưởng chính trị. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã chỉ rõ ba vấn đề cấp bách, trong đó vấn đề cấp bách thứ nhất là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tuy nhiên, việc kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4 chưa chỉ ra được bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị là ai, ở đâu. Đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhận định tình hình suy thoái về tư tưởng chính trị diễn biến phức tạp, nhưng vẫn chưa chỉ rõ biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị là gì.

Điểm mới của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) là đã chỉ ra cụ thể chín biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị. Có thể nêu một số biểu hiện như: Phai nhạt lý tưởng cách mạng; nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; khi có khuyết điểm thì giấu giếm, thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng. Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm. Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ. Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức. Vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện...
Chỉ rõ mối quan hệ giữa suy thoái về tư tưởng chính trị với suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và hậu quả của nó

Cùng với việc chỉ ra chín biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, Nghị quyết cũng chỉ ra chín biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, chín biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị T.Ư 4 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Cái mới của lần này là Trung ương thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong đó nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách nhiệm vụ được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham quyền lợi; bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân...
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mới nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị

Xác định rõ mục tiêu là nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, Nghị quyết chỉ ra ba quan điểm:
Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách.
Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp. Giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp luật của Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.
Để Nghị quyết đi vào cuộc sống, các tổ chức đảng, cấp ủy cần tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Nghị quyết. Liên quan đến ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, cần thực hiện thật tốt các giải pháp sau:
Một là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong các tổ chức đảng và đảng viên về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị.
Hai là, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay; khuyến khích phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng. Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy và học lý luận chính trị gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng dạy và học. Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.
Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ một cách khoa học, phù hợp; quy định lấy phiếu tín nhiệm ở các cấp, các ngành định kỳ hoặc đột xuất.
Bốn là, chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Năm là, hoàn thiện Quy chế về kỷ luật phát ngôn đối với cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm những cá nhân, nhóm người cấu kết với nhau, lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái. Tổ chức diễn đàn trao đổi, đối thoại những vấn đề còn có nhận thức, quan điểm khác nhau liên quan đến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Sáu là, hoàn thiện quy định về tổ chức, bộ máy và công tác bảo vệ chính trị nội bộ; bảo đảm sự trong sạch về chính trị trong nội bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược. Chú trọng nắm tình hình và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay; chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các đối tượng chống đối, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Rà soát, hoàn thiện quy định về quản lý cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập, lao động và công tác ở nước ngoài.
Bảy là, xây dựng quy định xử lý những tập thể, cá nhân suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có lời nói và việc làm biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nghiêm trọng.
Tám là, các cấp ủy, chính quyền phải nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW về quy chế giám sát và phản biện xã hội của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số 218- QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị quy định về việc mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2016

Không thể phủ nhận giá trị của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam
Qua 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vậy mà, một số người lại cố tình phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa xã hội và kết quả công cuộc đổi mới đất nước mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực, phấn đấu xây dựng nên - Điều đó thể hiện ý đồ xấu của họ.
Lý luận và thực tiễn khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những giá trị mới mà không một chế độ nào trước đó có được; những thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên những giá trị của chủ nghĩa xã hội, có sức sống bền vững, đặc biệt là những thành công trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Qua 30 năm đổi mới, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và tình trạng kém phát triển, kinh tế tăng trưởng khá, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình1. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng cường; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.Gần đây, các đối tượng phản động đã phát tán một số bài viết nhằm xuyên tạc, đả kích chủ nghĩa xã hội hiện thực, rằng: “chủ nghĩa xã hội: xã hội chủ nô”, “chủ nghĩa xã hội sản sinh ra những con người và xã hội ích kỷ”; “đi theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin là một sai lầm lịch sử, Việt Nam đang bế tắc về kinh tế”; vu cáo Đảng cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền, chuyên chính, quan liêu, v.v. Thực chất đó là cách nói, cách nhận xét phiến diện, phi lý, hoàn toàn không có cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm mục đích phủ nhận những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội đang hiện hữu ở Việt Nam, tiến tới đòi xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; cuộc sống của người dân từng ngày được “thay da, đổi thịt”, từ chỗ phải chịu cảnh “thiếu thốn trăm bề, cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, đến nay đã được thụ hưởng đầy đủ các dịch vụ phục vụ cho sự phát triển bản thân một cách toàn diện. Chính sách an sinh và phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân, chế độ ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội,… tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về mọi mặt. Theo thống kê, hiện nay, cả nước có khoảng 8,8 triệu người có công được hưởng chế độ ưu đãi (10% dân số); khoảng 14 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên; tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%, vùng đặc biệt khó khăn chỉ còn dưới 30%; 11 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, 190 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hơn 9 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và hơn 61 triệu người tham gia bảo hiểm y tế. Việc phổ cập giáo dục tiểu học được hoàn thành vào năm 2010 (99% trẻ em trong độ tuổi học sinh bậc tiểu học được đến trường). Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho toàn dân. Tuổi thọ trung bình tăng, đạt 73,5 tuổi vào năm 2015. Các quyền cơ bản của con người trên tất cả các lĩnh vực được đảm bảo bằng pháp luật và trong thực tiễn. Điều 3 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhân, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”2. Các chính sách dân tộc, tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng hoàn thiện và được bảo đảm trong thực tiễn, v.v. Việc Việt Nam được bầu là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (khóa 2014 - 2016)3 là sự ghi nhận và khẳng định những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm nhân quyền của Đảng, Nhà nước ta cùng những đóng góp quan trọng về thúc đẩy quyền con người trong khu vực và trên thế giới của Việt Nam.
Cùng với đó, Đảng, Nhà nước quan tâm đẩy mạnh thực hiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi để phát triển nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ của công dân; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân, gia đình và xã hội. Quan tâm giáo dục, xây dựng con người Việt Nam với những đặc tính cơ bản “yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”, có thế giới quan khoa học, phát huy phẩm chất nhân ái, lối sống có trách nhiệm, “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, hội tụ những giá trị “chân - thiện - mỹ”; khẳng định và tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp và nhân văn. Hiện nay, những giá trị mới của con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, sáng tạo, khát vọng vươn lên của người dân Việt Nam đang từng bước được phát triển; những giá trị truyền thống quý báu của con người Việt Nam, như: yêu nước, đoàn kết, “thương người như thể thương thân”,... đã, đang ngày càng được nuôi dưỡng và phát huy. Hàng vạn những “Gương mặt tiêu biểu” trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, những “Việc tử tế”, những “Tấm gương bình dị mà cao quý”, những nghĩa cử cao đẹp, những chương trình “Trái tim cho em”, “Nâng bước em tới trường”... đang nở rộ, có sức lan tỏa rộng lớn trong toàn xã hội.
Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà trong Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc thông qua các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ giai đoạn 2016 - 2030 (tháng 10-2015), Việt Nam được đánh giá là biểu tượng đấu tranh giành độc lập dân tộc, là hình mẫu về phát triển kinh tế, điểm sáng xóa đói giảm nghèo. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon nhấn mạnh: “Nếu tất cả các nước đều nỗ lực như Việt Nam, chắc chắn thế giới sẽ thực hiện thành công các mục tiêu phát triển trong giai đoạn mới”. Đó là một sự ghi nhận khách quan của quốc tế về thành tựu phát triển và giá trị chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và đó cũng là minh chứng rõ ràng, sống động nhất để phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, vu khống của những kẻ chống phá cách mạng Việt Nam.
Trong khi đó, nhìn vào nội tại xã hội tư bản hiện đại vẫn đang tồn tại đầy rẫy những khuyết tật, mâu thuẫn không thể giải quyết, như: thất nghiệp, đói nghèo, bất bình đẳng, khủng bố, v.v. Theo tổ chức từ thiện Oxfam đánh giá: chỉ 85 người giàu nhất thế giới có giá trị tài sản bằng 3,5 tỉ người nghèo; 1% người giàu nhất thế giới chiếm giữ khoảng 110 nghìn tỷ USD. Hiện nay, ở một số nước tỷ lệ người nghèo khá cao, như: Mê-hi-cô 21,4%; Israel 20,9%; Thổ Nhĩ Kỳ 19,2%; Chi-lê 17,8%; Anh 9,5%. Ngay ở Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, chênh lệch giàu - nghèo rất lớn: 1% người giàu có giá trị tài sản hơn 90% người nghèo; 7% người giàu nắm giữ tới 63% tài sản quốc gia; 49,7 triệu người dân Mỹ trong diện nghèo, v.v. Đặc biệt, tình trạng khủng bố, bạo lực, tội phạm, an ninh, phân biệt chủng tộc, sắc tộc diễn ra tràn lan, kéo dài không dứt, nhất là ở các nước phương Tây, Mỹ, khu vực Trung Đông.
Phủ nhận giá trị của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thủ đoạn nham hiểm được các thế lực thù địch thường dùng với mục tiêu hòng phủ nhận, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Song, đó chỉ là sự ảo tưởng của những kẻ ngông cuồng, với bản chất hiếu chiến, xâm lược. Bởi, những thành quả đạt được và giá trị tốt đẹp mà chủ nghĩa xã hội đã mang lại cho nhân dân đang hiện hữu ở Việt Nam. Đó là điều không thể phủ nhận! Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng đang diễn ra quyết liệt, cam go, phức tạp. Thực chất đó là cuộc đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới, trong điều kiện mới. Đối với nhân dân ta đây là cuộc đấu tranh chính nghĩa để bảo vệ chân lý, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì thế, chủ động và tích cực tham gia cuộc đấu tranh này là trách nhiệm cao cả của tất thảy người Việt Nam yêu nước ở trong nước và nước ngoài, trước hết là cán bộ, đảng viên./.
SỸ HỌA - QUANG HỢP

Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2016

Những dấu ấn đổi mới của Quốc hội

04/01/2016 - 08:30 (GMT+7)

70 năm qua, mỗi thời kỳ Quốc hội đều có dấu ấn riêng như những dấu son nghị trường tỏa sáng với thời gian.




12
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP HCM) chất vấn tại Kỳ họp thứ 10, Khóa XIII- Ảnh: Lã Anh
Ngày 6/1/1946, thành công vang dội của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên gắn với sự ra đời của Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ, mở ra một thời kỳ phát triển mới của dân tộc.
Trải qua 70 năm đồng hành cùng lịch sử cách mạng vẻ vang của dân tộc, mỗi thời kỳ Quốc hội đều có những dấu ấn riêng, giống như những dấu son nghị trường tỏa sáng với thời gian.
Bản lĩnh Hồ Chí Minh trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, tình hình đất nước muôn vàn khó khăn với thù trong, giặc ngoài, ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phải sớm tổ chức cuộc Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội đầu tiên ở nước ta. Khi đó, bằng tài năng, trí tuệ và bản lĩnh của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết tâm thực hiện tổ chức bầu cử sớm để khẳng định nước Việt Nam là một Nhà nước độc lập, tự chủ, là Nhà nước pháp quyền.
Và ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta đã được tổ chức thành công, Quốc hội khoá I của Việt Nam cũng ra đời từ đây. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ của nước ta. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá I được tổ chức vào ngày 2/3/1946 với tổng số ĐBQH là 403, trong đó bao gồm cả các thành phần của Việt minh, Việt cách, Việt quốc.
"Chúng ta cũng vẫn cứ quen với quan niệm họp Quốc hội là phải có mặt đủ 500 ĐBQH, vì thế mới có chuyện nhân dân không hài lòng khi nhìn hội trường vắng. Ở các nước, khi thảo luận các vấn đề, đặc biệt là vấn đề chuyên sâu thì không nhất thiết tất cả ĐBQH phải có mặt. Khi đó ngồi ở hội trường chỉ là những ĐB thực sự quan tâm và am hiểu về các vấn đề được thảo luận, có khi chỉ 100 người thảo luận chứ không phải 500 người cùng ngồi đó. Tuy nhiên, khi biểu quyết yêu cầu tất cả các ĐBQH phải có mặt để thể hiện chính kiến của mình."
Ông Vũ Mão
Hồi đó, do thành phần đối lập nhiều nên cách làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất khéo léo. Phe đối lập không muốn tham gia bầu cử nhưng chúng ta vẫn tiến hành và khéo léo kéo họ vào thành phần của Quốc hội, thậm chí để họ chiếm tỷ lệ cao trong Quốc hội. Nhưng chính điều đó lại tạo nên sự kết nối, mở rộng vòng tay đoàn kết dân tộc.
Có thể nói, thành phần của Quốc hội khi ấy rất phong phú, đa dạng, phản ảnh đầy đủ tầng lớp xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Thậm chí thời điểm đó có những đại biểu rất trẻ như Nguyễn Đình Thi, khi là ĐBQH mới có 21 tuổi. Cho đến nay, có thể nói chúng ta vẫn kế thừa được tinh thần của Quốc hội khóa đầu nên thành phần, cơ cấu của Quốc hội cũng rất đa dạng, phong phú, đại diện đầy đủ cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Trước đây, do ít các phương tiện thông tin đại chúng nên hoạt động trong các phiên họp Quốc hội không được thông tin ra bên ngoài, nhưng quan trọng hơn là thời điểm đó, các phiên họp diễn ra trong bối cảnh nước sôi lửa bỏng nên vấn đề công khai hay không công khai không phải là vấn đề lớn. Việc quan trọng hơn cả khi đó là làm sao xây dựng được chính quyền, bầu ra Chính phủ chính thức để điều hành đất nước.
Lần đầu tiên có tranh cử ở Quốc hội
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, dưới thời của Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Quốc hội Việt Nam bắt đầu có rất nhiều đổi mới, trong đó đổi mới quan trọng nhất là việc lần đầu tiên có tranh cử ở Quốc hội. Việc tranh cử chức danh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ở Quốc hội khoá VIII được coi là dấu son trong hoạt động nghị trường của lịch sử Quốc hội Việt Nam.
Tại kỳ họp giữa năm 1988, Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mới thay thế đồng chí Phạm Hùng vừa từ trần. Theo quy định của Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Nhà nước giới thiệu chức danh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng để Quốc hội bầu trên cơ sở là kết quả thảo luận và biểu quyết của Hội nghị BCH T.Ư Đảng. Theo đó, đồng chí Đỗ Mười khi ấy được giới thiệu để Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Nhưng sau đó, có rất nhiều đoàn ĐBQH đề nghị giới thiệu thêm đồng chí Võ Văn Kiệt.
Đây là một tình huống bất ngờ, vì từ trước đến nay, khi Đảng đã giới thiệu nhân sự thì các ĐBQH thảo luận ở Đoàn, dù có ý kiến khác nhau nhưng cuối cùng là nhất trí với sự giới thiệu.
Cuộc họp Hội đồng Nhà nước để thảo luận vấn đề này rất sôi nổi, đa số các thành viên đều nhất trí để hai ứng cử viên, coi đây là sự đổi mới tư duy, thể hiện tính dân chủ trong sinh hoạt Quốc hội.
Sự việc sau đó được báo cáo lên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, và Tổng Bí thư đã đồng ý triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị để bàn bạc về vấn đề này. Bộ Chính trị cũng nhất trí với đề nghị của Hội đồng Nhà nước, để hai ứng cử viên để Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Kết quả sau đó, đồng chí Đỗ Mười là người trúng cử với tỷ lệ 63% số phiếu, đồng chí Võ Văn Kiệt được 37% số phiếu. Khi ấy cả người trúng cử và người không trúng cử đều vui, các ĐBQH cũng thoải mái, phấn chấn. Đây là phiên tranh luận hấp dẫn mở đầu cho thời kỳ Quốc hội đổi mới.
11
Ông Vũ Mão
“Mạo hiểm” đề nghị truyền hình trực tiếp phiên chất vấn

Sau 8 năm Quốc hội hoạt động, những người có trách nhiệm đã nhận thức, nghiên cứu, phân tích, tìm tòi cách thức đổi mới, sau đó mới dám đề xuất cho truyền hình, phát thanh trực tiếp các phiên chất vấn ở Quốc hội, góp phần làm thay đổi về “chất” trong hoạt động của Quốc hội, thể hiện tính dân chủ cao khi người dân lần đầu tiên được trực tiếp theo dõi hoạt động chất vấn. Việc này đã tạo tiếng vang rất lớn.

Khi đó, trong bài phát biểu đầu tiên tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VIII, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã đề cập tư tưởng xuyên suốt: “Đất nước đổi mới, Đảng đổi mới thì Quốc hội cũng phải đổi mới”. Tổng Bí thư cũng nói: “Chúng ta kiên quyết không để Quốc hội trở thành cây cảnh. Chúng ta phải đồng tâm hiệp lực, từng bước cải tiến, đổi mới Quốc hội”. Vào thời điểm ấy chúng tôi cũng đã gặp không ít khó khăn để thuyết phục mọi người cho thực hiện việc này.
Chúng tôi luôn quan niệm làm sao để có dân chủ tốt hơn ở Quốc hội, làm sao để người dân trực tiếp biết, theo dõi được những hoạt động của Quốc hội… Ý tưởngtruyền hình trực tiếp phiên chất vấn đến người dân nảy sinh từ đó. Khi có ý tưởng ban đầu, chúng tôi phải xây dựng đề án rất công phu, rồi nghiên cứu để giải đáp những vấn đề mà lãnh đạo cấp trên đặt ra.
Lo ngại lớn nhất được đặt ra khi ấy là nếu truyền hình trực tiếp phiên chất vấn thì không chỉ người dân trong nước theo dõi được mà có thể lan tỏa ra toàn thế giới, dễ xảy ra nguy cơ làm lộ bí mật quốc gia, bởi cả người hỏi và người trả lời nhiều khi theo bản năng nghĩ gì nói thế. Việc này không thể lường trước được.
Vấn đề thứ hai là sợ “lộ” ra tất cả những hạn chế của ĐBQH, của lãnh đạo Bộ, ngành thông qua việc đặt câu hỏi và trả lời chất vấn. Đặc biệt, với người trả lời chất vấn là các Bộ trưởng hay lãnh đạo Chính phủ, người ta e ngại nếu trả lời chất vấn không suôn sẻ hoặc cứ đi lòng vòng, nói không chính xác thì sẽ làm mất uy tín.
Chúng tôi phải nghiên cứu tất cả những vấn đề đó để giải đáp. Chúng tôi cũng cam kết với lãnh đạo hết sức cố gắng không để xảy ra sơ suất, vì nếu có sơ suất gì thì bản thân chúng tôi cũng phải chịu trách nhiệm. Thậm chí, vào lúc đã thông báo cho toàn dân biết ngày mai QH tổ chức phiên chất vấn, có truyền hình và phát thanh trực tiếp, thì ngay trước đó một ngày cũng có đồng chí không đồng ý, cho rằng không nên truyền hình trực tiếp vì làm như vậy sẽ bất lợi, nguy hiểm. Có người đề xuất ghi hình lại toàn bộ phiên họp, chỗ nào “gay cấn” quá thì cắt bớt đi, rồi buổi tối phát lại.
Bản thân tôi khi đó cũng rất suy nghĩ, nhưng tôi cũng mạnh dạn nói nếu làm như thế thì không còn là truyền hình trực tiếp nữa. Tôi nói, giờ đã thông báo cho nhân dân cả nước biết rồi, chuẩn bị kỹ rồi, Ủy ban Thường vụ QH và Chính phủ đã bàn kỹ với nhau rồi, Thủ tướng Chính phủ đã phân công Bộ trưởng nào trả lời chất vấn ở phiên đó nên cứ cho phép làm, nếu có sai sót gì thì tôi xin chịu trách nhiệm.
Đó là những nan giải, khó khăn ban đầu. Và sau khi phiên chất vấn đầu tiên diễn ra vào buổi sáng của Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa IX, tháng 5/1994, đến buổi chiều, điện thoại từ các nơi gọi về biểu thị thái độ vui mừng và rất hoan nghênh.
Ngoài những sự đổi mới mạnh mẽ, hiệu quả nhưng cũng đầy khó khăn ấy, Quốc hội còn có nhiều đổi mới trong xây dựng Hiến pháp năm 1992 nhằm tạo cái mới trong tổ chức bộ máy Nhà nước. Về đối ngoại, chúng ta bắt đầu mở rộng quan hệ với các nước. Bên cạnh những đổi mới chính trị thì cơ sở vật chất và những đổi mới về kỹ thuật cũng tạo điều kiện cho QH phát triển, điển hình là việc thay biểu quyết qua hình thức giơ tay bằng bảng điện tử, đảm bảo tính nhanh gọn và chính xác hơn.
Việc mở cửa cho báo chí vào đưa tin tại các phiên họp Quốc hội cũng như phiên họp Thường vụ Quốc hội cũng bắt đầu từ Quốc hội khoá XI và được duy trì từ đó đến nay, thể hiện Quốc hội luôn chú trọng và đề cao vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền, đưa các quyết sách của Quốc hội đến gần dân hơn.
Tiếp tục đổi mới hơn để làm hài lòng dân
Dù hoạt động của Quốc hội đã chất lượng hơn, nhưng để đạt được sự hài lòng của người dân, Quốc hội phải tiếp tục đổi mới và không ngừng đổi mới.
Mới đây nhất, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XIII, Quốc hội đã đổi mới hình thức chất vấn. Theo đó, không chọn từng nhóm vấn đề và không chọn bốn Bộ trưởng, trưởng ngành để trả lời chất vấn như các kỳ họp trước, mà tại phiên chất vấn lần này, các ĐBQH có thể hỏi và chất vấn bất cứ lĩnh vực nào, với bất cứ Bộ trưởng, trưởng ngành hay thành viên Chính phủ nào, tất cả các thành viên Chính phủ sẵn sàng có mặt tại phiên chất vấn để đăng đàn trả lời.
Làm như vậy thì rõ ràng chúng ta tạo được không khí hơn, nhưng thẳng thắn nhìn nhận thì về chất lượng, hiệu quả vẫn chưa cao. Vì cuối cùng, sau hơn hai ngày chất vấn mà vấn đề bức xúc của xã hội, của nhân dân vẫn còn. Những vấn đề về kinh tế, nông nghiệp, về an toàn vệ sinh thực phẩm… cần đi đến một cái kết thì chưa quyết định được. Quản lý Nhà nước và vấn đề về tham nhũng cũng vậy.
Vấn đề chất vấn mỗi năm chúng ta đều cố gắng đổi mới, nhưng cho đến nay đây vẫn là một bài toán cần giải đáp một cách sâu sắc hơn, hiệu quả hơn.
Vừa rồi, chúng ta cũng có tìm tòi, đổi mới, mở rộng lĩnh vực và đối tượng chất vấn, đây là điểm tốt. Tuy nhiên, điều này cần hoàn thiện hơn nữa bởi nó vẫn còn một hạn chế là không tập trung được những vấn đề cốt yếu nhất mà nhân dân đang mong chờ. Nếu muốn duy trì hình thức chất vấn này thì cũng có thể được, nhưng phải kéo dài thời gian chất vấn hơn nữa.
Ví dụ, sau hai ngày chất vấn theo kiểu đó, thì phải dành thêm hai ngày nữa để đoàn Chủ tịch gom lại những vấn đề trọng yếu nhất mà nhân dân còn bức xúc để cuối cùng phải ra được giải pháp, phải kết luận lại những vấn đề đó, xem sau kỳ họp Quốc hội này thì Chính phủ phải làm gì, các Bộ ngành phải triển khai chương trình cụ thể thế nào cho có hiệu quả. Phải đổi mới lĩnh vực này nhiều hơn và mạnh mẽ hơn nữa bởi đã trải qua nhiều năm mà chất vấn và trả lời chất vấn của ta vẫn còn lúng túng.
Về phía các ĐBQH, sau 5 năm hoạt động thì cũng có kinh nghiệm hơn, nhưng thực tế qua các kỳ họp Quốc hội, việc thường xuyên phát biểu, phản biện hiện nay chỉ tập trung vào số ít đại biểu, con số đó chỉ khoảng trên dưới 10 người, trong khi tổng số ĐBQH của chúng ta có tới 500 ĐB. Các ĐB khác hoặc không phát biểu, hoặc phát biểu thì ý kiến mờ nhạt, không sâu sắc. Điều đó chứng tỏ chúng ta cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng ĐBQH, mỗi ĐBQH phải cố gắng hơn, cương trực, thẳng thắn và vì dân hơn, dám nói những ý kiến của mình, tự nâng cao hiểu biết của mình hơn nữa.
Một vấn đề khác chúng ta cũng phải thay đổi về nhận thức, đó là việc thảo luận ở Quốc hội. Thông thường ở các nước, nếu cần thì Quốc hội làm việc liên tục, với tinh thần đi đến cùng sự việc, họ sẵn sàng thảo luận tới 12h đêm hay 1h sáng. Chúng ta cũng nên học tập tinh thần như vậy, bởi hiện nay Quốc hội chúng ta làm việc theo giờ hành chính, cứ hết giờ là nghỉ, dù cho vấn đề đang bàn dở dang.
                                                                                               Nguyên Chủ nhiệm Văn Phòng Quốc Hội
                                                                                                                      Vũ Mão

Đoàn kết, lời căn dặn thiết tha của Bác 6:18' 11/3/2018 Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngoài cùng bên trái) với các đại biểu về dự Đại hộ...